Từ khóa: Các tỉnh Tây Bắc; Nghị quyết số 11 - NQ/TW; nguồn
nhân lực; nguồn nhân lực người dân tộc thiểu số; xây dựng chiến lược phát triển
nguồn nhân lực người dân tộc thiểu số.

Tây Bắc là khu
vực có nhiều tộc người thiểu số với nền văn hóa đa dạng, giàu bản sắc, gắn liền
với quá trình tụ cư lâu đời của cư dân từ nhiều nguồn và nhiều thời điểm khác
nhau. (Ảnh: TTXVN)
Đặt vấn đề
Phát
triển vùng là một chủ trương xuyêt suốt và nhất quán của Đảng trong quá trình
phát triển đất nước nhằm khai thác, phát huy cao nhất tiềm năng, lợi thế của
các vùng và địa phương trong cả nước để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội,
bảo đảm quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân
dân. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: Phát huy tốt nhất lợi thế của mỗi vùng
về kết cấu hạ tầng, điều kiện tự nhiên, vị trí địa kinh tế - chính trị, nguồn
nhân lực và tăng cường tính liên kết nội vùng và liên vùng để tham gia vào các
chuỗi giá trị toàn cầu, tạo không gian phát triển mới...
Trong phát triển vùng, yếu tố con người thật sự
là động lực, xung lực tạo bước đột phá mạnh mẽ cho khu vực. Bài viết tìm hiểu
chiến lược phát triển nguồn nhân lực người dân tộc thiểu số các tỉnh Tây Bắc, từ
đó tác giả tham góp một số đề xuất có ý nghĩa gợi mở đối với việc xây dựng
chiến lược phát triển nguồn nhân lực người dân tộc thiểu số, nhằm nâng cao hơn
nữa chất lượng nguồn nhân lực ở khu vực này hiện nay theo tinh thần Nghị quyết
số 11- NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XIII.
1. Một số vấn đề
lý luận về xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực
“Nguồn nhân lực” có rất nhiều
cách hiểu khác nhau. Theo Tổ chức Liên Hợp quốc “Nguồn
nhân lực là trình độ lành nghề, là kiến thức và năng lực của toàn bộ cuộc sống
con người hiện có thực tế, hoặc tiềm năng để phát triển kinh tế - xã hội trong
một cộng đồng”[9]. Cách diễn
đạt khác “Nguồn nhân lực” được hiểu “là số dân và chất lượng con người, bao gồm
cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực, phẩm chất và đạo đức
của người lao động”[8]. Theo giáo
trình “Nguồn nhân lực” - Nhà xuất bản Lao động xã hội, “Nguồn nhân lực bao gồm
toàn bộ dân cư có khả năng lao động, không phân biệt người đó đang được phân bố
vào ngành nghề, lĩnh vực, khu vực nào và có thể coi đây là nguồn nhân lực xã
hội”[5]. Có những
cách diễn đạt khác nhau, song điểm chung trong nội hàm của khái niệm “nguồn
nhân lực”được phản ánh ở các nội dung: (i)Số lượng nguồn nhân lực,
gồm toàn bộ dân cư có khả năng lao động; (ii) Chất lượng nguồn
nhân lực, gồm trình độ lành nghề, kiến thức và năng lực thực tế hoặc
tiềm năng của con người để phát triển kinh tế - xã hội trong một cộng đồng. Tham chiếu khái niệm này vào đối
tượng người dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc, tác giả cho rằng “Nguồn nhân lực
người dân tộc thiểu số các tỉnh Tây Bắc là trình độ, kiến thức, năng lực thực
tế hoặc tiềm tàng của toàn bộ cư dân dân tộc thiểu số các tỉnh Tây Bắc trong độ
tuổi lao động và có khả năng lao động”. Xây dựng
chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho người dân tộc thiểu số các tỉnh Tây
Bắc có thể hiểu là:“Xây dựng một kế hoạch làm cho trình độ, kiến thức, năng lực
thực tế hoặc tiềm tàng của người dân tộc thiểu số các tỉnh Tây Bắc có khả năng
lao động tốt hơn, cao hơn hiện tại”.
Về cách hiểu “vùng Tây Bắc” trong phạm vi nghiên cứu của
bài viết, tác giả giới hạn vùng Tây Bắc gồm 6 tỉnh: Hoà Bình, Sơn La, Điện
Biên, Lai Châu, Lào Cai và Yên
Bái. Lựa chọn này vừa dựa trên cách tiếp cận địa - văn hoá, vừa theo cách tiếp
cận địa - hành chính và địa - kinh tế - xã hội.
2. Nguồn nhân lực các tỉnh Tây Bắc - một số
điểm nổi bật
Về thực trạng lao động nói chung, lao động
người dân tộc thiểu số nói riêng trong vùng Tây Bắc, có một số điểm chính thể
hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng 1: Số dân và dân số trong
tuổi lao động các tỉnh Tây Bắc
(đơn vị: người)
STT
|
Tỉnh
|
Tổng dân số
|
Nam (Số dân trong độ tuổi
15-59)
|
Nữ (Số dân trong độ tuổi 15-54)
|
Số dân tộc
|
1
|
Hòa
Bình
|
854.131
|
272.669
|
236.808
|
30
|
2
|
Sơn
La
|
1.248.415
|
386.907
|
347.640
|
12
|
3
|
Điện
Biên
|
598.856
|
180.102
|
162.169
|
19
|
4
|
Lai
Châu
|
460.196
|
138.112
|
124.466
|
23
|
5
|
Lào
Cai
|
730.420
|
229.563
|
217.918
|
27
|
6
|
Yên
Bái
|
821.030
|
257.035
|
223.834
|
30
|
Tổng số
|
4.713.048
|
1.464.388
|
1.312.835
|
|
Nguồn: Ban Chỉ đạo
Tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ương[1, tr.166-168]
Theo Mục
1, Điều 3, Bộ luật Lao động năm 2019, độ tuổi tối thiểu của người lao động là
đủ 15 tuổi. Như vậy, ở Việt Nam độ tuổi lao động sẽ là đủ 15 tuổi đến 60 tuổi
đối với nam giới, từ năm 2021 mỗi năm cộng thêm 03 tháng
đến khi đủ 62 tuổi vào năm 2028; đến 55 tuổi đối với nữ giới, từ năm 2021 mỗi
năm cộng thêm 04 tháng đến khi đủ 60 tuổi vào năm 2035[3]. Dựa
trên những
số liệu bảng 1, mặc dù chưa bổ sung số liệu thống kê trong độ tuổi 60 (của nam)
và 55 (của nữ), nhưng quy mô dân số trong độ tuổi lao động của vùng Tây Bắc là khá cao, vào khoảng
gần 3 triệu người, chiếm 58,9%. Tỷ lệ này khá ổn định ở cả 6 tỉnh trong vùng:
Hòa Bình (59,6%), Sơn La (58,8%), Điện Biên (57,2%), Lai Châu (57,1%), Lào Cai
(61,3%), Yên Bái (58,6%).
Tuy nhiên, nhìn chung chất
lượng nguồn nhân lực ở Tây Bắc còn hạn chế so với các địa phương lân cận và
trong tương quan so sánh mức bình quân của cả nước. Dễ nhận thấy điều này khi
tham khảo tỷ lệ dân cư trong độ tuổi lao động theo trình độ giáo dục:
Bảng 2: Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi
trở lên theo trình độ giáo dục cao nhất đạt được
(đơn vị: %)
Địa phương
|
Tổng số
|
Dưới tiểu học
|
Tiểu học
|
THCS
|
THPT
|
Trên THPT
|
Toàn quốc
|
100,0
|
9,8
|
21,4
|
32,3
|
17,3
|
19,2
|
Trung du - miền núi phía Bắc
|
100,0
|
15,0
|
19,3
|
33,2
|
14,4
|
18,1
|
Đồng
bằng sông Hồng
|
100,0
|
2,7
|
11,7
|
37,3
|
20,4
|
27,9
|
Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung
|
100,0
|
8,7
|
21,6
|
33,7
|
17,5
|
18,5
|
Tây
Nguyên
|
100,0
|
14,9
|
25,3
|
32,4
|
13,5
|
13,9
|
Đông
Nam Bộ
|
100,0
|
6,3
|
20,5
|
30,2
|
22,2
|
20,8
|
Đồng
bằng sông Cửu Long
|
100,0
|
18,4
|
34,6
|
26,0
|
11,3
|
9,7
|
Hòa
Bình
|
100,0
|
8,5
|
22,6
|
34,7
|
18,2
|
16,0
|
Sơn La
|
100,0
|
27,8
|
21,2
|
26,5
|
10,6
|
13,9
|
Điện
Biên
|
100,0
|
32,7
|
18,5
|
25,0
|
7,5
|
16,3
|
Lai
Châu
|
100,0
|
41,8
|
15,5
|
22,4
|
5,9
|
14,4
|
Lào Cai
|
100,0
|
23,2
|
18,0
|
31,3
|
10,9
|
16,6
|
Yên Bái
|
100,0
|
16,1
|
19,8
|
35,2
|
10,8
|
18,1
|
Nguồn: Ban Chỉ đạo
Tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ương[1, tr.166-168]
Ở tỷ lệ lao động có trình độ
trên trung học cơ sở (THCS), trung
học phổ thông (THPT)cơ bản các
tỉnh Tây Bắc đều thấp hơn so với mức bình quân chung của cả nước, trừ Hòa Bình.
Nếu so sánh hai chỉ số này ở cấp độ
vùng, tỷ lệ bình quân dân số trên 15 tuổi có trình độ THPT và trên THPTcủa 6 tỉnh vùng Tây Bắc lần lượt là 10,65% và 15,9%. Hai
chỉ số này đều thấp hơn khá nhiều mức bình quân chung của cả nước (lần lượt là
17,3% và 19,2%). Trong tương quan so sánh với các vùng còn lại trong cả nước,
vùng Tây Bắc thấp hơn tất cả các vùng ở chỉ số trình độ THPT và chỉ cao hơn khu
vực Tây Nguyên, Đồng bằng sông Cửu Long ở chỉ số trên THPT.
Xét trên thực trạng từ đối
tượng cán bộ người dân tộc thiểu số - một bộ phận quan trọng của người lao động
dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc, có thể tham khảo kết quả điều tra xã hội học của
nhóm tác giả Cao Anh Đô - Cao Minh Công - Nguyễn Thị Tố Uyên. Tiến hành khảo
sát bảng hỏi tại 5 tỉnh: Điện Biên, Lào Cai, Sơn La, Hòa Bình và Yên Bái với số
lượng 200 phiếu mỗi tỉnh dành cho đối tượng là cán bộ dân tộc thiểu số. Kết
quả:
Về trình độ lý luận
chính trị của đội ngũ cán bộ cơ sở: Trình độ cử nhân chính trị và cao cấp chính
trị bình quân là 7,5% (Cụ thể: Hòa Bình 6,7%, Lào Cai 12,5%, Sơn La 4,4%, Yên
Bái 4,0%, Điện Biên 9,9%).
Số cán bộ chưa qua đào tạo ở
5 tỉnh khá cao, bình quân là 17,7% (Cụ thể: Hòa Bình 12,9%, Lào Cai 15,6%, Sơn
La 22,3%, Yên Bái 7,7%, Điện Biên 32,2%).
Về trình độ quản lý
hành chính nhà nước: Chuyên viên 46,6%; Chuyên viên chính 4,0%; Chuyên viên cao cấp
0,8%; Chưa qua bồi dưỡng 48,6%[2, tr.139-140].
Như vậy, vẫn đang tồn tại
một “khoảng cách” trong chất lượng nguồn nhân lực người dân tộc thiểu số nói
riêng, chất lượng nguồn nhân lực nói chung ở các tỉnh Tây Bắc so với những vùng
còn lại trong cả nước. Nguyên nhân của sự chênh lệch này, có thể xét tới mấy
điểm chính sau:
Thứ nhất, do điều kiện tự nhiên của
Tây Bắc có những điểm bất lợi. Sự chia cắt của địa hình, sự khắc nghiệt của
thiên nhiên và đặc biệt là những khó khăn, hiểm trở của giao thông ảnh hưởng
lớn tới nhu cầu học tập, nâng cao trình độ của người dân nói chung, người dân
trong độ tuổi lao động nói riêng.
Thứ hai, do yếu
tố kinh tế của vùng. Trong lịch sử và hiện tại, dù đã có nhiều đổi mới và đạt
nhiều kết quả, song thực tế, Tây Bắc vẫn là vùng nghèo và khó khăn nhất cả
nước, đây là trở lực đối với các dân tộc, với mỗi hộ gia đình và từng người dân
trong việc tiếp cận các chương trình học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ.
Thứ ba, do đặc tính tâm lý tộc người và
những “thói quen” trong sinh hoạt, sản xuất. Tây Bắc là vùng đa dân tộc chung
sống đan xen. Yếu tố tâm lý tộc người ảnh hưởng sâu sắc, toàn diện tới việc
phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội vùng Tây Bắc, trong đó có vấn đề
phát triển nguồn nhân lực của vùng.
3. Nghị quyết số
11-NQ/TW[4] và một số gợi mở cho việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực người dân
tộc thiểu số ở các tỉnh Tây Bắc
Nhận
thức những điểm hạn chế của vùng này, nhằm tạo điều kiện phát triển nhanh và
bền vững vùng đồng bào dân tộc thiểu số Tây Bắc, Đảng và Nhà nước trong những
năm gần đây đã ban hành nhiều Quyết định và Nghị quyết, tiêu biểu như: Quyết
định 135/1998/ QĐ-TTg ngày 31-7-1998 của Thủ tướngVề Chương
trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số
và miền núi; Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 01-7-2004 của Bộ Chính trị Về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng an
ninh vùng trung du miền núi Bắc Bộ đến năm 2010; Quyết định
số 79/2005/QĐ-TTg ngày 15-4-2005 của Thủ tướng Chính phủ về Chương
trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 01 tháng 7
năm 2004 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo
đảm quốc phòng an ninh vùng trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2010
(gọi tắt là Quyết định số 79/2005/QĐ-TTg); Kết luận số
26-KL/TW của Bộ Chính trịVề tiếp tục thực hiện Nghị
quyết số 37-NQ/TW ngày 01-7-2004; Quyết định số 1064/QĐ-TTg ngày
08/07/2013 Quyết định về phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế - xã hội vùng Trung du và Miền núi phía Bắc đến năm 2020...
Ngày 10/02/2022, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TW về
"Phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm
quốc phòng, an ninh vùng trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến
năm 2045". Đây là Nghị quyết đầu tiên về phát triển vùng được Bộ Chính trị
khóa XIII xem xét, ban hành, thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước
và cho thấy vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của Vùng Trung du và miền núi
Bắc bộ trong phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh của cả
nước. Với tư duy, quan điểm, tầm nhìn mới phù hợp với bối cảnh mới, Nghị quyết
số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị đưa ra 5 nhóm quan điểm, 5 nhóm nhiệm vụ và giải
pháp chủ yếu, bao gồm: i) Hoàn
thiện thể chế phát triển và liên kết vùng; ii) Phát
triển nhanh và bền vững kinh tế vùng; iii) Phát
triển văn hóa - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
trong Vùng; iv) Bảo đảm vững chắc quốc
phòng, an ninh; v) Tập
trung xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị. Điểm trọng tâm đột phá
tại Nghị quyết này là sự đổi mới về tư duy phát triển Vùng nhằm khắc phục những
điểm hạn chế căn bản trong liên kết và phát triển Vùng thời gian qua. Theo đó,
phát triển Vùng Trung du và miền núi Bắc bộ vừa phải phù hợp với Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, bảo đảm thống nhất với quy hoạch quốc
gia; phù hợp với Chiến lược phát triển bền vững, Chiến lược tăng trưởng xanh
quốc gia. Vừa phải khai thác, phát huy cao nhất tiềm năng, lợi thế của vùng,
từng tiểu vùng và từng địa phương trong Vùng trên cơ sở phát triển và khai thác
tối đa kết cấu hạ tầng hiện có, hình thành các hành lang kinh tế, một số vùng
động lực, các cực tăng trưởng.

Một buổi sinh hoạt cộng đồng của bà con dân tộc thiểu số Hà Giang. (Ảnh: https://www.vnu.edu.vn)
Tây Bắc là một tiểu vùng trong Vùng Trung du và miền
núi Bắc Bộ. Trên cơ sở định hướng tổng thể đã được Nghị quyết số 11-NQ/TW của
Bộ Chính trị nêu và thực trạng nguồn nhân lực của vùng Tây Bắc thời gian qua,
tác giả xin tham góp một số đề xuất đối với việc xây dựng chiến lược/kế hoạch
phát triển nguồn nhân lực người dân tộc thiểu số ở các tỉnh Tây Bắc thời gian
tới:
Một là, thay
đổi và nâng cao nhận thức về sự cấp thiết, ý nghĩa của việc nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực người dân tộc thiểu số. Trước là thay đổi nhận thức trong các
cấp ủy, chính quyền và đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp của vùng về
trách nhiệm, nghĩa vụ trong việc phát triển nguồn nhân lực tại chỗ. Ngoài ra,
xét tới tính đa tộc người của vùng Tây Bắc, rất cần thiết phải nâng cao nhận
thức trong đội ngũ trưởng bản, người đứng đầu dòng họ, người có uy tín ở địa
phương - thiết chế phi quan phương trong vùng Tây Bắc. Cũng rất cần thiết sự
tham gia của xã hội, các doanh nghiệp trong công tác này. Và không thể không
nhắc tới sự tự ý thức, nỗ lực vươn lên của mỗi người dân trong các tộc người
thiểu số. Ở định hướng này, nếu chỉ chú ý đơn lẻ từng thành tố tham gia sẽ khó
có thể phát huy hiệu quả thiết thực, khó bảo đảm tính bền vững của công tác
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc.
Hai là, khai
thác tối đa những thế mạnh, tiềm năng của vùng và từng địa phương trong vùng để
phát triển kinh tế - xã hội tạo ra nhiều việc làm có giá trị gia tăng cao. Tây
Bắc, bên cạnh những hạn chế, khó khăn, vẫn có nhiều thế mạnh, tiềm năng cho sự
phát triển nói chung, cho nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nói riêng. Giải
pháp đặt ra đó là có thể khai thác thế mạnh từ tài nguyên thiên nhiên để phát
triển công nghiệp, thủy điện, điện gió, điện mặt trời, công nghiệp khai khoáng,
công nghiệp chế biến... Khai thác nét đặc sắc, độc đáo văn hóa của các dân tộc,
điều kiện tự nhiên hùng vĩ, các danh lam, thắng cảnh, di tích lịch sử, các công
trình kiến trúc hiện đại và liên kết với các vùng, khu vực khác để phát triển
du lịch, phát triển ngành công nghiệp văn hóa. Khi kinh tế, văn hóa - xã hội
phát triển, khắc bản thân người dân/nguồn nhân lực tại chỗ sẽ tìm cách tự nâng
cao trình độ, hiểu biết, kỹ năng của mình để đáp ứng, không những giữ chân được
con em của mình tự làm giàu tại quê hương, không phải đi ở nơi khác tìm việc mà
còn trở thành một nguồn sáng thu hút nguồn lực có chất lượng đến làm việc tại
vùng này.
Trong lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội của vùng,
rất cần thiết có những tư duy mới, cách làm mới, trước hết từ chính bản thân
mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý đúng như Văn kiệm Đại hội XIII của Đảng khẳng
định: Cán bộ phải dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới
sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động
vì lợi ích chung. Từ nhận thức đầy đủ về tiềm năng, thế mạnh cũng như những hạn
chế của địa phương, mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý ở từng địa phương có thể đề
xuất những giải pháp để phát huy tiềm năng, thế mạnh và khắc phục hạn chế, thậm
chí biến hạn chế trở thành động lực, quyết tâm cho sự vươn lên.
Ba là, chú
trọng tính độc lập, tự chủ, sáng tạo của từng địa phương trong vùng, đồng thời
đẩy mạnh, thực hiện tốt việc “liên kết vùng”. Khái niệm “Vùng Tây Bắc” trong
cách tiếp cận hiện nay ở Việt Nam thể hiện ở phương diện địa lý lãnh thổ, ở góc
độ tổ chức hành chính lại khác. Bởi lẽ đó, dù có những điểm chung về điều kiện
tự nhiên, điều kiện kinh tế xã hội, đặc tính tâm lý văn hóa tộc người,... nhưng
6 địa phương của vùng Tây Bắc lại có sự độc lập, tính riêng của hệ thống chính
trị, gắn với sự độc lập, tính riêng trong chủ trương, cách thức chỉ đạo. Bởi
vậy, rất cần thiết phải chú ý tới tính chủ động, sáng tạo của từng tỉnh trong
việc vận dụng những quan điểm, chủ trương, nghị quyết của Đảng, những chính
sách của Nhà nước vào điều kiện đặc thù của địa phương mình. Mặt khác, cũng cần
nâng cao “tính liên kết” của các tỉnh trong lãnh đạo phát triển nguồn nhân lực
người dân tộc thiểu số. Thể hiện ở việc xác định nhiệm vụ này không phải là
công việc đơn lẻ của từng đơn vị mà là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị,
của toàn xã hội và của mỗi cá nhân người dân tộc thiểu số.
Ngoài
ra, tính “liên kết” còn được thể hiện ở thái độ cởi mở trong việc trao đổi,
chia sẻ, học tập kinh nghiệm, mô hình, cách làm,... phát triển nguồn nhân lực
dân tộc thiểu số giữa các địa phương trong vùng Tây Bắc và giữa các địa phương
của vùng Tây Bắc với những địa phương còn lại trong nước, thậm chí tính toán
những điểm phù hợp, tương đồng để có thể tham khảo từ nước ngoài. Tính “liên
kết vùng” đặt ra yêu cầu trước hết phải có sự gắn kết giữa vùng Tây Bắc với
vùng Đông Bắc và vùng Trung du Bắc Bộ trên cơ sở bám sát những định hướng của
Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị, từ đó tạo nên “sức mạnh” chung của
Vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ. Đây là nền tảng quan trọng cho những sự “liên
kết” ở các phạm vi, cấp độ cao hơn.
Bốn là, nâng
cao chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực. Có một
thực tế khá phổ biến ở các tỉnh Tây Bắc, trình độ học vấn của con em các dân
tộc còn thấp, một số có điều kiện học tập, nâng cao trình độ ở cấp đại học, cao
đẳng thì lại không muốn trở về lập nghiệp ở quê hương, trình độ đào tạo không đáp
ứng yêu cầu đòi hỏi... Để khắc phục hạn chế này, trước mắt cần có “chiến lược”
nâng cao mặt bằng dân trí cho con em người dân tộc ở khu vực này. Làm sao để
tất cả con em người dân tộc trên địa bàn, đã đến tuổi là phải được đi học, được
đến trường học, ít nhất là hết Trung học cơ sở. Lựa chọn, đầu tư cho những cháu
có khả năng tiếp tục cho học lên cấp cao hơn. Với số này, mỗi địa phương cần
xây dựng những chiến lược liên kết với các trường đại học, các doanh nghiệp đào
tạo theo địa chỉ, đào tạo ra những người không phải chỉ biết đi xin việc làm mà
phải biết tạo ra việc làm “khởi nghiệp”, cho những người khác để họ không phải
đi tìm kiếm việc ở các tỉnh xa.
Củng cố các cơ sở đào tạo, dạy nghề để bảo đảm gánh
vác được nhiệm vụ dạy nghề cho người dân trong tỉnh và cả vùng, để họ có kiến
thức khoa học cơ bản trong những công việc hằng ngày, những công việc tưởng
chừng như không cần kiến thức cũng làm được, chỉ cần “tay quen”. Điểm rút ra từ
gợi ý này chính là cần thiết phải xây dựng được những chương trình đào tạo,
bồi dưỡng phù hợp với từng đối tượng lao động, gắn
liền với những mục đích sử dụng cụ thể, tránh những hoạt động hình thức, lãng
phí, thiếu hiệu quả. Gắn liền với chương trình là những phương pháp, cách thức,
chương trình, giáo trình/giáo án... đào tạo, bồi dưỡng phù hợp.
Kết luận
Với
đặc thù của các địa phương trong vùng Tây Bắc Việt Nam, nguồn nhân lực người
dân tộc thiểu số giữ vai trò quan trọng đối với sự ổn định và phát triển của
vùng. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan mà chất lượng và
đóng góp của nguồn nhân lực này vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh
trong phẩm chất, năng lực của người dân tộc thiểu số. Bởi vậy, trong tổng thể
định hướng, chính sách phát triển chung của vùng và từng địa phương của vùng,
rất cần thiết phải có sự quan tâm thiết thực tới yêu cầu chăm lo, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực người dân tộc thiểu số. Đó không chỉ là trách nhiệm của hệ
thống chính trị, mà còn là sự chung tay của toàn xã hội và ý thức tự giác vươn
lên trong mỗi lao động người dân tộc thiểu số. Kết quả của công tác này sẽ góp
phần quan trọng cho sự phát triển của từng địa phương trong vùng, đưa tới sự
phát triển chung của vùng trong mục tiêu thu hẹp khoảng cách phát triển với
nhiều địa phương còn lại trong cả nước.
Tài liệu tham khảo:
[1] Ban Chỉ đạo Tổng điều tra dân số
và nhà ở Trung ương, Kết quả tổng điều tra dân
số và nhà ở thời điểm 0 giờ ngày 01 tháng 4 năm 2019, Nxb. Thống kê,
H, 12/2019, (tác giả đã xử lý số liệu).
[3] Nghị định 115/2020/NĐ-CP ngày
25-9-2020 Quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên
chức.
[4] Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày
10/02/2022 của Bộ Chính trị Về phương hướng phát triển
kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ
đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
[9] WB (2000), World Development Indicators, Oxford, London.