
Xây dựng nền tư pháp "chuyên
nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ
nhân dân" là nội dung rất quan trọng của nhiệm vụ xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam - Ảnh minh họa: internet
Hoạt động tư pháp có trọng trách bảo vệ
công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Để đạt
được mục tiêu nêu trên, việc xây dựng nền tư pháp Việt Nam cần tập trung vào
các yếu tố hợp thành, gồm: thể chế tư pháp; thiết chế (tổ chức bộ máy) tư pháp
và bổ trợ tư pháp; đội ngũ cán bộ tư pháp; nguồn lực tài chính, cơ sở vật chất,
kỹ thuật, công nghệ… bảo đảm cho hoạt động tư pháp; ý thức pháp luật về tư
pháp. Trong thời gian qua, nền tư pháp Việt Nam đã đạt được một số kết quả quan
trọng:
Thứ nhất, thể chế tư pháp được quan tâm
xây dựng và ngày càng hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý tương đối đầy đủ, đồng
bộ, thống nhất, công khai, dân chủ, nghiêm minh trong hoạt động tư pháp
Các cơ quan có thẩm quyền đã xây dựng,
sửa đổi, bổ sung nhiều đạo luật lớn, quan trọng trong lĩnh vực tư pháp, phù hợp
với tiến trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và Nhà nước
pháp quyền Việt Nam XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Từ năm 2005 đến năm 2020, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ
Quốc hội đã ban hành 53 luật, 19 pháp lệnh liên quan đến lĩnh vực tư pháp;
Chính phủ, các cơ quan tư pháp Trung ương đã ban hành nhiều văn bản áp dụng
pháp luật, chỉ đạo triển khai thực hiện.
Thứ hai, tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm
vụ, thẩm quyền của các cơ quan tư pháp được đổi mới, kiện toàn, từng bước nâng
cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động
Tổ chức và hoạt động của tòa án nhân
dân được xây dựng và hoàn thiện theo mô hình 4 cấp; tăng thẩm quyền xét xử sơ
thẩm cho tòa án nhân dân cấp huyện, mở rộng thẩm quyền xét xử của tòa
án đối với các khiếu kiện hành chính. Đổi mới việc tổ chức phiên tòa, coi trọng
và nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, từng bước thực hiện công khai
các bản án (tính đến nay, Cổng thông tin điện tử Tòa án nhân dân tối cao đã
đăng tải 1.019.067 bản án, quyết định của tòa án các cấp)(2).
Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành nhiều án lệ và hướng dẫn áp dụng thống nhất
pháp luật trong xét xử. Ngoài việc đổi mới tổ chức, chức năng, nhiệm vụ thì thủ
tục tố tụng tư pháp tại tòa án cũng được hoàn thiện và cải cách mạnh mẽ theo
hướng tạo điều kiện cho người dân tiếp cận công lý, như hình thành chế định
gửi, nhận đơn, khởi kiện, tài liệu, chứng cứ và cấp, tống đạt, thông báo văn
bản tố tụng bằng phương tiện điện tử…
Thứ ba, tổ chức và hoạt động của luật sư,
công chứng, giám định được quan tâm xây dựng, ngày càng đáp ứng yêu cầu cải
cách tư pháp, góp phần xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, chuyên
nghiệp, hiện đại
Tổ chức, hoạt động của luật sư đã có bước
phát triển và đạt nhiều kết quả; đội ngũ luật sư phát triển cả về số lượng và
chất lượng; dịch vụ luật sư ngày càng đa dạng với chất lượng được nâng lên,
hoạt động tham gia tố tụng của luật sư đã góp phần quan trọng nâng cao
chất lượng hoạt động tố tụng, làm tăng tính dân chủ, công bằng tại các phiên
tòa, giảm việc kết án oan, sai, qua đó đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu cải
cách tư pháp và hội nhập quốc tế.
Giai đoạn từ năm 2009 đến 31-12-2020, đội
ngũ luật sư Việt Nam đã tham gia 158.201 vụ án hình sự, 132.602 vụ việc dân sự,
58.371 vụ việc tư vấn trong lĩnh vực kinh tế, kinh doanh, thương mại, 9.672 vụ
án hành chính, 2.578 vụ án lao động; tư vấn pháp luật 762.935 vụ việc; đại diện
ngoài tố tụng 32.020 vụ việc; các dịch vụ pháp lý khác 112.371 vụ việc(3).
Hệ thống tổ chức giám định tư pháp công
lập (pháp y, pháp y tâm thần và kỹ thuật hình sự), các tổ chức giám định tư
pháp trong và ngoài Nhà nước ở một số lĩnh vực (tài chính, ngân hàng, xây dựng,
cổ vật...) tiếp tục được củng cố, kiện toàn và phát triển.
Thứ tư, đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ
tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp được quan tâm xây dựng, đáp ứng
tốt hơn yêu cầu cải cách tư pháp, góp phần nâng cao uy tín của nền tư pháp Việt
Nam
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ pháp
luật, cán bộ tư pháp được quan tâm; hệ thống các cơ sở đào tạo luật phát triển
nhanh về số lượng, đáp ứng yêu cầu đào tạo cán bộ pháp luật của các cơ quan tư
pháp và xã hội. Xây dựng và triển khai thực hiện đề án “các trường trọng điểm
đào tạo cán bộ về pháp luật”, “trung tâm lớn đào tạo các chức danh tư pháp”.
Công tác tuyển dụng, quy hoạch, luân chuyển, bổ nhiệm, giáo dục chính trị, đạo
đức nghề nghiệp, trách nhiệm và chế độ, chính sách tiền lương đối với cán bộ tư
pháp được quan tâm.
Thứ năm, cơ sở vật chất cho tổ chức và
hoạt động các cơ quan tư pháp ngày càng được bảo đảm tốt hơn
Việc bảo đảm nguồn lực cho hoạt động tư
pháp đã được Đảng và Nhà nước quan tâm, tạo điều kiện, từng bước đầu tư cơ sở
vật chất và tăng nguồn kinh phí theo lộ trình. Nguồn ngân sách nhà nước
cấp cho lĩnh vực tư pháp tăng tỷ lệ bình quân 5% - 8% mỗi năm (tăng chi ứng
dụng công nghệ thông tin, chi vận hành trụ sở mới, thuê trụ sở đối với trụ sở
xuống cấp).
Chế độ, chính sách đối với cán bộ tư pháp
có nhiều đổi mới; kinh phí đào tạo, bồi dưỡng được tăng lên. Kinh phí mua sắm
tài sản, trang thiết bị và phương tiện làm việc của các cơ quan tư pháp được
quan tâm thực hiện theo đúng quy định của Luật Ngân sách nhà nước. Ngân sách
dành cho các cơ quan tư pháp nhìn chung đáp ứng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ. Đẩy
mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động tư pháp, bước đầu đã đưa lại
hiệu quả thiết thực.
Thứ sáu, đổi mới nội dung, phương thức,
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp và hoạt động tư
pháp
Cấp ủy, tổ chức đảng quan tâm lãnh đạo
công tác xây dựng đảng, công tác tổ chức, cán bộ trong các cơ quan tư pháp;
phân công đồng chí cấp ủy có trình độ chuyên môn, năng lực, uy tín làm Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Chánh án tòa án nhân dân các cấp. Tái lập,
kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của Ban Nội chính Trung ương và Ban
Nội chính tỉnh ủy, thành ủy. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ
quan bảo vệ pháp luật trong hoạt động nói chung, trong công tác điều tra, xử lý
các vụ án, vụ việc nói riêng, tạo điều kiện để các cơ quan bảo vệ pháp luật
phát hiện, điều tra, xử lý vi phạm pháp luật và tội phạm, bảo đảm nguyên tắc
mọi hành vi vi phạm và tội phạm phải được phát hiện, xử lý kịp thời, chính xác,
nghiêm minh theo đúng quy định của pháp luật và quy định của Đảng, khắc phục
tốt hơn tình trạng buông lỏng lãnh đạo hoặc can thiệp không đúng vào hoạt động
tư pháp.
Bên cạnh những kết quả đạt được, quá
trình xây dựng nền tư pháp Việt Nam theo hướng chuyên nghiệp, công bằng, nghiêm
minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân vẫn còn những tồn
tại, hạn chế.
Một là, công
tác xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật về hình sự, dân sự và tổ chức,
hoạt động tư pháp chưa thực sự phù hợp với những yêu cầu khách quan của đời
sống xã hội và quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Một số quy
định của pháp luật về hình sự, dân sự, tố tụng tư pháp, bổ trợ tư pháp còn bất
cập, thiếu đồng bộ, khó thực hiện, hạn chế khả năng tiếp cận công lý, bảo vệ
các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.
Hai là, tổ
chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp còn một số hạn chế. Hệ thống tòa án
chưa thực sự được tổ chức theo thẩm quyền xét xử, hai cấp tòa án vẫn gắn với
đơn vị hành chính (cấp tỉnh, huyện) nên ảnh hưởng nhất định đến chất lượng,
hiệu quả hoạt động tư pháp. Một số chủ trương, định hướng về cải cách tổ chức
bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan tư pháp nêu trong Nghị quyết 48-NQ/TW
ngày 24-5-2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết 49-NQ/TW
ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020
chưa thực sự hiệu quả; có chủ trương chưa triển khai thực hiện được do còn
nhiều ý kiến khác nhau. Bộ máy cơ quan điều tra vẫn được tổ chức
ở nhiều cơ quan khác nhau; bộ máy cơ quan điều tra ở Trung ương còn
lớn.
Ba là, công
tác xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp có mặt chưa đáp ứng yêu cầu của nền
kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và khu vực. Trình độ, năng lực, phẩm chất
đạo đức của một bộ phận cán bộ tư pháp còn hạn chế, chưa đồng đều; công tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ tư pháp chưa được quan tâm đúng mức; đội ngũ cán bộ có
chức danh tư pháp còn thiếu, chuyên gia đầu ngành còn ít, chưa đủ sức giải
quyết những vấn đề pháp lý đặt ra trong quá trình hội nhập quốc tế; chế độ,
chính sách còn bất cập, chưa phù hợp với tính đặc thù và trách nhiệm pháp lý
trong hoạt động tư pháp; chưa thu hút được những người giỏi vào các cơ quan tư
pháp, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, nơi có điều kiện kinh tế - xã hội nhiều
khó khăn. Một số cán bộ sai phạm, vi phạm pháp luật và đạo đức nghề nghiệp, làm
suy giảm niềm tin, sự tín nhiệm của nhân dân đối với hoạt động tư pháp.
Bốn là, cơ
sở vật chất, kinh phí cho các cơ quan tư pháp chưa bảo đảm. Cơ chế phân bổ ngân
sách cho các cơ quan tư pháp chậm đổi mới; nguồn đầu tư công phân bổ cho hệ
thống cơ quan tư pháp hằng năm và trong giai đoạn trung hạn 2005 - 2020 chưa
đáp ứng đủ nhu cầu của cơ quan tư pháp. Trụ sở làm việc của một số cơ quan tư
pháp chật hẹp, chưa đáp ứng tiêu chuẩn, định mức để bảo đảm điều kiện làm việc;
nhiều nơi được xây dựng từ lâu, hiện đã xuống cấp.
Năm là, sự
lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động tư pháp có lúc, có nơi còn biểu
hiện buông lỏng hoặc can thiệp không đúng vào hoạt động nghiệp vụ tư pháp; công
tác kiểm tra, giám sát của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư
pháp chưa được quan tâm đúng mức, hiệu quả chưa cao.
Để triển khai thực hiện có hiệu quả mục
tiêu “xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, công bằng, nghiêm minh, liêm
chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân” và các chủ trương, quan điểm trong
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng về xây dựng nền tư pháp Việt Nam và Kết luận số
84-KL/TW ngày 29-7-2020 của Bộ Chính trị về tổng kết 15 năm thực hiện Nghị
quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020, trong thời gian tới cần tập trung vào các nhiệm vụ, giải pháp sau:
Thứ nhất, tiếp tục đổi mới, tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động tư pháp
Xác định rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn và
nội dung, phương thức lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng đối với các cơ quan
tư pháp và hoạt động tư pháp; không để xảy ra tình trạng cấp ủy, tổ chức đảng
buông lỏng lãnh đạo hoặc can thiệp không đúng vào hoạt động tư pháp; tăng cường
kiểm tra việc thực hiện cơ chế lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng trong việc chỉ
đạo giải quyết những vụ việc, vụ án quan trọng, phức tạp.
Tiếp tục tăng cường công tác xây dựng
Đảng, giáo dục, quản lý, kiểm tra, giám sát hoạt động của các tổ chức đảng,
đảng viên trong các cơ quan, tổ chức tham gia hoạt động tư pháp; chăm lo công
tác đào tạo, bố trí cán bộ. Tiếp tục nghiên cứu xây dựng mô hình tổ chức đảng
phù hợp với mô hình tổ chức hệ thống các cơ quan tư pháp.
Thứ hai, tiếp tục xây dựng, hoàn
thiện pháp luật về hình sự, dân sự, tố tụng tư pháp, về tổ chức và hoạt động
của các cơ quan tư pháp, bổ trợ tư pháp
Hoàn thiện chính sách, pháp luật về hình
sự, tạo lập đầy đủ cơ sở pháp lý để phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn, xử lý các
hành vi vi phạm pháp luật; đề cao hiệu quả phòng ngừa, tính nhân đạo, hướng
thiện, khắc phục tình trạng hình sự hóa các quan hệ kinh tế, dân sự và bỏ lọt
tội phạm, người phạm tội.
Hoàn thiện pháp luật về dân sự, bảo đảm
phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, nền kinh tế
số; sự an toàn, thông thoáng, công bằng trong các quan hệ dân sự cũng như
trong giải quyết vụ việc dân sự; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà
nước, tổ chức, cá nhân và lợi ích công cộng; giải quyết kịp thời những vấn
đề mới phát sinh liên quan đến sự phát triển của khoa học, công nghệ, các tranh
chấp có yếu tố nước ngoài, tranh chấp phi truyền thống.
Hoàn thiện pháp luật tố tụng tư pháp, bảo
đảm tính dân chủ, công bằng, bình đẳng, công khai, minh bạch, tạo
điều kiện thuận lợi và tăng khả năng tiếp cận công lý của người dân, tôn trọng
và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của những
người tham gia tố tụng.
Hoàn thiện pháp luật thi hành án, nghiên
cứu xây dựng Bộ luật thi hành án; đổi mới phương thức, nâng cao hiệu lực, hiệu
quả thi hành án; tăng cường xã hội hóa thi hành án, nghiên cứu mở rộng hình
thức, đối tượng thi hành án hình sự tại cộng đồng. Xây dựng hệ thống pháp luật
về tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống
nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định.
Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về bổ trợ
tư pháp đồng bộ với pháp luật về tố tụng tư pháp, phát huy vai trò của chế định
bổ trợ tư pháp trong nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động tư pháp; khuyến
khích, tạo điều kiện thuận lợi huy động các nguồn lực xã hội để phát triển hoạt
động bổ trợ tư pháp.
Thứ ba, tập trung xây dựng hệ thống cơ
quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, uy tín, hoạt động hiệu lực, hiệu quả
Xác định rõ vị trí, vai trò, nhiệm vụ,
quyền của Tòa án nhân dân, cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp theo quy
định của Hiến pháp năm 2013. Đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án
nhân dân theo hướng mở rộng thẩm quyền xét xử của tòa án đối với khiếu
kiện hành chính; hoàn thiện tổ chức bộ máy, cơ chế hoạt động của các tòa án,
nhất là các tòa án sơ thẩm; nghiên cứu thành lập các tòa án rút
gọn, tòa án giản lược để xét xử các vụ án hình sự ít nghiêm trọng, các
tranh chấp có giá trị không lớn với cơ chế lãnh đạo, quản lý phù hợp.
Sắp xếp, kiện toàn tổ chức và hoạt động
của cơ quan điều tra theo hướng thu gọn đầu mối, bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo
tập trung, thống nhất từ Trung ương đến địa phương; xác định rõ mối quan hệ
giữa hoạt động điều tra trong tố tụng hình sự và hoạt động trinh sát; phù hợp
với mô hình tổ chức của viện kiểm sát, tòa án.
Thứ tư, xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp
trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới
Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ tư
pháp, trọng tâm là xây dựng đội ngũ thẩm phán có đủ phẩm chất, năng lực và uy
tín để thực hiện tốt chức năng xét xử, thực hiện quyền tư pháp. Đổi mới nội
dung, phương thức đào tạo cán bộ tòa án và đào tạo nguồn bổ nhiệm thẩm
phán; thường xuyên bồi dưỡng kỹ năng nghề, cập nhật kiến thức mới về pháp luật
và những vấn đề liên quan đến hoạt động xét xử, thực hiện quyền tư pháp.
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế tuyển chọn
thẩm phán từ nguồn luật sư và cán bộ có trình độ chuyên môn cao thuộc các cơ
quan bảo vệ pháp luật, bảo đảm thẩm phán phải là những người ưu tú, có phẩm
chất, năng lực và uy tín cao trong số những người làm việc trong lĩnh vực pháp
luật. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ tư pháp
trong lĩnh vực pháp luật quốc tế.
Thứ năm, bảo đảm cơ sở vật chất, phương
tiện và kinh phí phù hợp với đặc thù của hoạt động tư pháp
Tăng cường kinh phí, từng bước hiện đại
hóa trụ sở làm việc, trang thiết bị, phương tiện làm việc thiết yếu, bảo đảm
cho các cơ quan tư pháp hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Xây dựng tòa án điện tử, tiến tới tòa án
số ở Việt Nam nhằm chuyển một phần hoạt động của tòa án từ không gian thực lên
không gian số, tiến hành trên nền tảng số một số hoạt động như: quản trị nội bộ
tòa án; công khai hoạt động của tòa án; cung ứng cho người dân các dịch vụ tư
pháp công; hỗ trợ các tiện ích nâng cao hiệu quả hoạt động của các chức danh tư
pháp; kết nối và khai thác cơ sở dữ liệu của nền tảng số quốc gia; tiến hành
các hoạt động tố tụng điện tử; qua đó hỗ trợ thẩm phán ra phán quyết chính xác;
tiết kiệm công sức, thời gian và chi phí của người dân; tăng cường tính
công khai, minh bạch trong hoạt động của tòa án và để kết nối với các nền
tảng số khác…
(Nguồn: lyluanchinhtri.vn)
_________________
(1) ĐCSVN: Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.II,
Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.149.
(2) Xem: https://congbobanan.toaan.gov.vn/6tatcvn/Thong-ke
(3) Xem: Dự thảo Báo cáo
công tác nhiệm kỳ II (2015-2020) của Liên đoàn Luật sư Việt Nam.