Từ khóa: Nhóm ngôn ngữ; quan hệ, tộc người thiểu số; vùng biên giới
Việt - Trung.

(Ảnh:
http://lyluanchinhtri.vn)
Đặt vấn đề
Vùng biên giới là một khu vực địa lý gần đường
biên, trong đó có các cộng đồng cư dân sinh sống và các cộng đồng này có thể có
cùng bản sắc văn hóa tộc người, mặc dù họ có thể bị chia cắt bởi một đường biên
giới lãnh thổ quốc gia. Vùng biên giới Việt - Trung
là địa bàn cư trú của nhiều tộc người thiểu số có những gần gũi về nguồn gốc
lịch sử, quan hệ thân tộc, đặc trưng văn hóa, hoạt động sinh kế... Trong trường
hợp này quan hệ giữa các tộc người đồng nghĩa với quan hệ công dân của hai quốc gia. Do vậy, nghiên cứu để hiểu
rõ về mối quan hệ giữa các tộc người cùng nhóm ngôn ngữ, góp phần ổn định xã
hội, phát triển kinh tế, đảm bảo quốc phòng, an ninh là một yêu cầu cấp bách
hiện nay.
1. Về vùng biên giới Việt - Trung
và các tộc người thiểu số
Đường biên giới trên đất liền Việt Nam- Trung Quốc dài1449,566 km, tiếp giáp giữa 7 tỉnh Điện Biên, Lai
Châu, Lào Cai,Hà Giang, Cao Bằng Lạng Sơn và
Quảng Ninh (của Việt Nam) vớitỉnh Vân Nam và tỉnh Quảng Tây (của TrungQuốc). Phía Việt Nam có 32 huyện,
thị xã, thành phố biên giới, trong đó tỉnh Điện Biên có 01 huyện: Mường Nhé;
tỉnh Lai Châu có 04 huyện: Mường Tè, Phong Thổ, Sìn Hồ, Nậm Nhùn; tỉnh Lào Cai
có 05 huyện: Si Ma Cai, Mường Khương, Bảo Thắng, Bát Xát và thành phố Lào Cai;
tỉnh Hà Giang có 07 huyện: Mèo Vạc, Đồng Văn, Yên Minh; Quản Bạ, Vị Xuyên,
Hoàng Su Phì và Xín Mần; tỉnh Cao Bằng có 07 huyện biên giới là Bảo Lâm, Bảo
Lạc, Thông Nông, Hà Quảng, Trùng Khánh, Hạ Lang, Quảng Hòa, Thạch An; tỉnh Lạng
Sơn có 05 huyện: Tràng Định, Văn Lãng, Cao Lộc, Lộc Bình, Đình Lập, tỉnh Quảng
Ninh có 03 huyện: Bình Liêu, Hải Hà và thành phố Móng Cái.
Phía Trung Quốc có 15 huyện, tỉnh Vân Nam có08 huyện: Phú Linh, Ma Ly Pho, Mã Quan, Hà Khẩu,
Bình Biên,Kim Bình, Lục Xuân, Giang
Thành; Khu tự trị dân tộc Choangtỉnh Quảng
Tây có 07 huyện: Phòng
Thành, Ninh Minh, BằngTường, Long
Châu, Đại Tân, Nà Po và Trịnh Tây[8, tr. 8].
Biên giới Việt - Trung có đặc điểm là cư dân khu
vực biên giới hai nước sinh sống, canh tác đan xen qua nhiều thế hệ. Ở một số
nơi, cư dân biên giới có quan hệ dòng tộc lâu đời, việc qua lại thăm thân, làm
ăn diễn ra tương đối thường xuyên.
Ở Việt Nam có 28 tộc người là Việt (Kinh), Mường,
Khơ Mú, Xinh Mun, Mảng, Kháng, Hmông, Dao, Pà Thẻn, Tày, Thái, Nùng, Sán Chay,
Giáy, Lào, Lự, Bố Y, La Chí, Cờ Lao, Pu Péo, Hoa, Sán Dìu, Hà Nhì, Phù Lá, La
Hủ, Lô Lô, Cống, Si La[9].
Ở Trung Quốc, có 13 tộc người: Choang, Thái, Bố
Y, Mèo, Dao, Hán, Di, Hà Nhì, La Hủ, Cơ Lao, Kinh, Hồi, Pu Lăng. Có một số tộc
người ở Trung Quốc là một nhưng ở phía Việt Nam là hai tộc người, như Thái của
Trung Quốc, ở phía Việt Nam là Thái và Lự; ở Trung Quốc là Bố Y, ở phía Việt
Nam là Bố Y và Giáy; ở Trung Quốc là Di, ở Việt Nam là Lô Lô và Phù Lá; ở Trung
Quốc là Hán, ở Việt Nam là Hoa (Hán) và Ngái. Có một số tộc người ở Trung Quốc
là một, thì ở Việt Nam là ba, chẳng hạn ở Trung Quốc là Dao, phía Việt Nam là
Dao, Pà Thẻn, Sán Dìu; ở Trung Quốc là Hà Nhì, ở Việt Nam là Hà Nhì, Si La,
Cống; ở Trung Quốc là một, ở Việt Nam là năm, chẳng hạn ở Trung Quốc là Choang,
ở Việt Nam là Tày, Nùng, Pu Péo, La Chí, Sán Chay. Ở Việt Nam, tộc người Sán
Chay gồm hai nhóm Cao Lan và Sán Chí, ở phía Trung Quốc, người Cao Lan là một
nhóm của Choang, người Sán Chí là một nhóm của Dao; ở Việt Nam, người Khơ Mú là
một tộc người, nhưng ở Trung Quốc là một nhóm của tộc người Pu Lăng[5].
2. Quan hệ giữa các tộc người thiểu
số vùng biên giới
- Quan hệ
về nguồn gốc lịch sử: Một số tộc người ở vùng
biên giới các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta có nguồn gốc từ các nước láng
giềng (chủ yếu ở phía Nam của Trung Quốc), di cư đến Việt Nam vào những thời
điểm và với các nguyên nhân khác nhau, trong đó một bộ phận của một số dân tộc
sau khi đến nước ta lại tiếp tục di cư sang nước khác, hoặc ngược lại di cư đến
nước khác rồi mới đến Việt Nam. Do đó, tuy hiện cư trú ở những quốc gia khác
nhau, nhưng ngoài các mối tương đồng về đặc điểm kinh tế, xã hội và văn hóa,
đồng bào vẫn giữ được ý thức về nguồn gốc tộc người, tập tục thờ cúng tổ tiên
chung và dòng tộc của mình thông qua các huyền thoại, biểu tượng vật tổ hay tô
tem và nghi lễ thờ cúng. Tuy nhiên, mối quan hệ này mang nhiều sắc thái và mức
độ khác nhau giữa các tộc người.
Trong các tộc người hiện có
các mối quan hệ đồng tộc, thân tộc xuyên/liên biên giới, thì người Hmông có
quan hệ sâu rộng và bền chặt hơn cả, không chỉ diễn ra trong phạm vi vùng cư
trú mà còn xuyên/liên biên giới, xuyên/liên quốc gia. Một trong những đặc điểm
của tộc người này là dù sống ở đâu cũng đề cao tính cố kết đồng tộc, sẵn sàng
giúp đỡ nhau, khi di cư cũng có tính tập thể theo dòng họ hay cộng đồng, đến
nơi ở mới cũng tìm đến nhau để cùng cư trú tập trung, luôn bảo vệ nhau khi xảy
ra mâu thuẫn với tộc người khác, nhất là giữa những người cùng chung một họ -
tức theo quan niệm của họ là cùng chung một ma/tổ tiên.
- Quan hệ kinh tế: Nhờ có mối quan hệ đồng tộc, thân tộc nên các cá nhân thường qua lại hai
bên biên giới buôn bán, tìm cơ hội việc làm, nhưng thường không thông qua kiểm
soát của Nhà nước. Việc trao đổi, mua bán giúp đỡ nhau này diễn ra hết sức linh
hoạt ở các tộc người và các địa phương. Chỉ tính đến năm 2019 (thời điểm chưa
bùng nổ đại dịch Covid 19) ở hai địa phương là Cao Bằng và Điện Biên đã cho
thấy điều đó.
Ở tỉnh Cao Bằng, số
người vượt biên sang Trung Quốc làm thuê tăng theo từng năm (năm 2017, toàn
tỉnh có trên 8.000 người, đến năm 2018 là hơn 9.700 người).Theo Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Cao Bằng,
tính riêng tại khu vực biên giới, địa bàn do Bộ đội Biên phòng quản lý, các đơn
vị đã ngăn chặn 975 vụ với 17.640 lượt công dân Việt Nam có ý định vượt biên
trái phép sang Trung Quốc làm thuê...
Lao động sang Trung Quốc làm việc chủ yếu đi “chui” theo đường tiểu ngạch như
lối mòn, đường sông, mà không qua cửa khẩu vì không có giấy tờ xuất nhập cảnh.
Nhiều trường hợp làm thủ tục xuất nhập cảnh sang Trung Quốc đi du lịch, thăm
người thân, nhưng hết hạn không về mà ở lại làm thuê trái phép... Mức thù lao
cho một ngày công lao động dao động trong khoảng 120.000 - 250.000 đồng/ngày[3].
Ở tỉnh Điện Biên, theo báo cáo của Phòng An ninh
đối ngoại Công an tỉnh, từ năm 2015 đến nay, có khoảng 6.500 lượt người xuất
cảnh trái phép sang Trung Quốc để làm thuê, mà nguyên nhân chủ yếu là do ở địa
phương thiếu việc làm, người lao động tranh thủ đi tìm việc làm để tăng thu
nhập cho bản thân và gia đình, trong khi vấn đề giải quyết việc làm cho người
lao động ở địa phương chưa đáp ứng được nhu cầu của người lao động. Bên cạnh
đó, nhu cầu sử dụng lao động phổ thông không yêu cầu về trình độ, tay nghề ở
phía bên Trung Quốc rất lớn, mức thu nhập cao hơn so với ngày công lao động phổ
thông tại Việt Nam nên vào mùa nông nhàn người dân ở các tỉnh miền núi và giáp
biên với Trung Quốc ồ ạt xuất cảnh trái phép sang Trung Quốc để làm thuê[7].
- Quan hệ xã hội: Hiện nay, mối quan hệ này ngày càng phát triển, nhất là trong quan hệ
hôn nhân, gia đình và dòng họ. Trong quan hệ hôn nhân ở hai bên biên giới diễn
ra từ trước đến nay, các tộc người thiểu số thường kết hôn với người cùng tộc,
do không cách trở nhiều về địa lý môi trường nên ít gặp phải các trở ngại về
ngôn ngữ, tập quán xã hội, sinh hoạt văn hóa, hoạt động sản xuất...
Chỉ có phụ nữ Việt Nam sang
Trung Quốc lấy chồng, những trường hợp ngược lại rất hiếm khi xảy ra. Hầu hết
các cuộc kết hôn diễn ra ở vùng biên giới với các tộc người Hmông, Dao, Sán
Chay, Nùng đều với người đồng tộc... Do đặc điểm cư trú liền kề với đường biên giới,
các tộc người ở hai bên đường biên giới có chung một đặc điểm văn hóa, phong
tục, tập quán và thường xuyên có mối liên hệ thăm thân với nhau từ nhiều đời
nay. Do vậy, các tình huống gặp gỡ vợ/chồng của các cuộc hôn nhân xuyên biên
giới chủ yếu là từ phong tục tập quán truyền thống của các tộc người có sự
tương đồng về văn hóa.
Kết quả khảo sát cho thấy,
với các dân tộc Tày, Nùng, Dao tình huống kết hôn của các cặp vợ chồng do mai
mối là chủ yếu (Dao: 75%; Tày: 39%; Nùng: 28%). Trong khi đó tình huống đi chợ,
đi chơi gặp nhau dẫn tới hôn nhân chiếm tỷ lệ khá cao ở người Hmông: 47,4%; Sán
Chay: 50%... Với các tộc người Tày, Nùng, Dao, Sán Dìu, Sán Chay ở khu vực biên
giới Việt - Trung, việc mai mối hay vai trò của ông mối, bà mối vẫn giữ vị trí
quan trọng trong các cuộc hôn nhân. Các cuộc hôn nhân không chỉ nằm trong khu
vực biên giới mà cả các cuộc hôn nhân xuyên biên giới cũng mang đậm màu sắc
phong tục với vai trò dẫn dắt của ông mối, bà mối. Trong nhiều trường hợp,
người làm mai mối có thể là những người đã kết hôn với người nước ngoài (Trung
Quốc) từ nhiều năm trước, trong quá trình thăm thân về quê cũ, họ đã lựa chọn
và là người mai mối trung gian cho các cặp hôn nhân hiện tại... Khi được hỏi về
nguyện vọng về người sẽ kết hôn, hầu hết các ý kiến khẳng định, họ muốn kết hôn
với người đồng tộc hơn là khác tộc. Thậm chí người đồng tộc có thể ở bên kia
biên giới vẫn là lựa chọn ưu tiên 79,9%, trong khi lựa chọn đối với người khác
tộc chỉ là 17%[4, tr.
55].
Không chỉ trong hôn nhân,
hầu hết các dân tộc sinh sống dọc biên giới Việt - Trung đều ngày càng tăng
cường quan hệ với đồng tộc, thân tộc ở bên kia đường biên, điển hình là các tộc
người Hmông, Khơ mú, Hà Nhì, Lô Lô, Tày, Nùng. Trong đó, một bộ phận nhỏ của
một số tộc người đã lợi dụng các mối quan hệ đồng tộc, thân tộc xuyên/liên biên
giới này để thực hiện các hoạt động phi pháp, làm nảy sinh nhiều tệ nạn xã hội
ở vùng dân tộc thiểu số, vùng biên giới, như: bắt cóc, lừa gạt, buôn bán phụ nữ
và trẻ em qua biên giới; buôn bán hàng lậu; vận chuyển, mua bán ma tuý...
- Quan hệ văn hóa: Về cơ bản, mối quan hệ đồng tộc, thân tộc xuyên/liên biên giới của các
tộc người trên lĩnh vực văn hóa không diễn ra thường xuyên, chỉ có một số người
có quan hệ họ hàng, thông gia, bạn bè thân thiết... sinh sống liền kề nhau dọc
biên giới thi thoảng sang tham dự các lễ hội hay nghi lễ chung của dòng họ hay
cộng đồng, mục đích chính vẫn là thăm viếng, thực hiện nghĩa vụ tâm linh truyền
thống.
Tuy nhiên, trong thời gian
gần đây, đã xuất hiện việc lợi dụng quan hệ đồng tộc, thân tộc xuyên/liên biên
giới để qua lại đường biên bất hợp pháp nhằm vận chuyển, truyền bá sản phẩm đồi
trụy phi văn hóa, truyền đạo trái pháp luật. Đặc biệt trong mấy thập kỷ qua,
hiện tượng một bộ phận người dân Hmông, Dao và của một số ít các dân tộc khác
chuyển đổi sang theo đạo Tin lành đã hình thành một xu hướng mới trong quan hệ
nội tộc người giữa những người có cùng tôn giáo. Như vậy, bên cạnh quan hệ đồng
tộc, thân tộc truyền thống còn có thêm quan hệ về tôn giáo. Mối quan hệ này
không chỉ diễn ra trong nội tộc người ở trong nước mà còn diễn ra giữa các đồng
tộc, thân tộc ở nước ngoài và bộ phận tín đồ của các tộc người ở trong và ngoài
nước.
Có thể nói, hiện nay các mối
quan hệ đồng tộc, thân tộc xuyên/liên biên giới ở vùng biên giới đang ngày càng
trở nên sâu rộng, tạo thêm nhiều cơ hội mới trong các lĩnh vực kinh tế, giáo
dục, khoa học... nhưng cũng làm nảy sinh thêm nhiều vấn đề phức tạp, nhất là ở
khu vực đa tộc người, đa tôn giáo vùng biên giới. Đặc biệt quan hệ đồng tộc,
thân tộc, tôn giáo của một số tộc người như Hmông, Dao, Lô Lô, Hà Nhì và một
phần là ở các tộc người Thái, Nùng, Hán đã vượt khỏi tầm quốc gia để có thể bị
lợi dùng thành vấn đề quốc tế.
3.
Đề xuất giải pháp quản lý
Quan hệ giữa các tộc người cùng nhóm
ngôn ngữ ở vùng biên giới Việt Nam và Trung Quốc có hình thức và nội dung đa
chiều, được biểu hiện trong các lĩnh vực như nguồn gốc lịch sử tộc người, hoạt
động kinh tế, đời sống xã hội, văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo... Trong giai
đoạn hiện nay, để quản lý các mối quan hệ này, xin đề xuất một số giải
pháp:
Thứ nhất, phát
huy vị trí và vai trò của hệ thống chính trị cơ sở ở vùng các tộc người thiểu số, biên giới trong xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc, củng cố mối quan hệ dân tộc trong phạm vi quốc gia
và các vấn đề liên quan bên kia biên giới dưới sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng
cơ sở, vừa xây dựng chính quyền vừa góp phần củng cố quốc phòng, an ninh và
phát triển kinh tế - xã hội, bảo tồn các giá trị văn hóa[1, tr. 173].
Thứ hai, tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy trong các chương
trình phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, quan tâm chăm lo phát
triển văn hóa giáo dục, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân. Quan
tâm làm tốt công tác quy hoạch, đào tạo, sử dụng, bố trí hợp lý cơ cấu cán bộ
dân tộc đối với các chức danh chủ chốt ở cơ sở, phát huy vai trò của Bí thư Chi
bộ, trưởng bản, trưởng dòng họ, già làng, trưởng bản, người có uy tín và phân
công cán bộ hiểu biết phong tục tập quán về công tác ở vùng dân tộc dân tộc
thiểu số.
Thứ ba, kết hợp luật tục và luật pháp trong quản lý cơ sở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Hiện
nay, tuy cơ sở xã hội các tộc người thiểu số đã có nhiều thay đổi, luật pháp
của Nhà nước đó thâm nhập và phát huy tác dụng trong cộng đồng làng bản, nhưng
vai trò của luật tục vẫn rất mạnh trong điều chỉnh các quan hệ xã hội. Chính vì
vậy, chủ trương của Đảng và Nhà nước về tái lập luật tục là đúng đắn, song cũng
phải được tính toán kỹ, tránh để tình trạng luật tục tạo ra những quy
định trái với luật pháp, mà phải cùng luật pháp duy trì xã hội vùng đồng
bào các tộc người thiểu số trong một trật tự, kỷ cương thống nhất, thúc
đẩy tiến bộ xã hội[2, tr.
13].
Thứ tư, tại biên giới, các mối quan hệ tộc người được quản lý tốt bởi lực lượng biên phòng và chính quyền, đoàn thể địa phương, nhưng ở nội địa, việc nắm bắt tình hình lại chưa tốt. Do vậy, phải phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ các tộc người thiểu số về năng lực lãnh đạo, quản lý, xử lý tình huống và phát huy vốn tri thức am hiểu về địa bàn, dân cư, quan hệ dân tộc hai bên biên giới trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của người di cư. Đồng thời, phải hết sức chú ý về tư tưởng dòng họ, bè phái... trong quản lý, lãnh đạo và giải quyết mối quan hệ dân tộc, quan hệ kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng.
Thứ năm, giải quyết vấn đề quan hệ tộc người xuyên quốc gia hiện nay không chỉ bó hẹp ở phạm vi địa phương mà phải gắn kết giữa các vùng miền của cả nước và đặt trong đối sánh với những tác động từ nước ngoài. Phát huy mọi nguồn lực cho phát triển; tận dụng tối đa những lợi thế của vùng, của các tộc người và những tác động tích cực từ chính sách của nước láng giềng; đặc biệt, cần có một chiến lược xây dựng vùng biên giới Việt Nam, trong đó trọng tâm là phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống và ý thức quốc gia - dân tộc cho người dân ở khu vực biên giới[6, tr. 39].
Kết luận
Vùng biên giới Việt - Trung
là địa bàn cư trú của nhiều tộc người có cùng nhóm ngôn ngữ thuộc các ngữ hệ
Nam Á, Thái - Ka Đai, Hán - Tạng. Các tộc người này có mối quan hệ gắn bó với
những người đồng tộc của mình trong nước; đồng thời có mối quan với đồng tộc ở
quốc gia láng giềng, đặc biệt là các tộc người Hmông, Hà Nhì, Tày, Nùng... Quan
hệ tộc người trong nhiều trường hợp là đồng nghĩa với quan hệ công dân của các
nhà nước do vậy các công dân phải
chấp hành theo các quy định luật pháp của mỗi nước. Việc thăm thân hay các hoạt
động kinh tế, giao lưu văn hóa của các cộng đồng tộc người ở các quốc gia phải
thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Chính vì vậy, cần có sự kết
hợp chặt chẽ giữa hệ thống các đồn
biên phòng với chính quyền các địa phương
trong việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật, hướng dẫn đồng bào các dân tộc
thiểu số ở biên giới các nước thực hiện các quyền và lợi ích hợp pháp chính
đáng của công dân tránh tình trạng vượt biên trái phép, di cư tự do xuyên, liên
biên giới, hôn nhân xuyên biên giới góp phần bảo đảm an ninh – quốc phòng vùng
biên giới Việt Nam và Trung Quốc hiện nay.