Thứ Bảy, ngày 16/07/2022, 13:58

Tính đúng đắn, sáng tạo trong quan điểm, đường lối phát triển kinh tế tư nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam

NGUYỄN VĂN THẮNG - VŨ THỊ HỒNG KHANH
Học viện Chính trị khu vực I

(GDLL) - Trong hơn 35 năm lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, trung thành, kế thừa và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam thường xuyên đổi mới tư duy gắn với tổng kết thực tiễn và đề ra chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó có kinh tế tư nhân đạt được nhiều thành tựu rực rỡ. Bài viết góp phần khẳng định đường lối, quan điểm phát triển kinh tế tư nhân là đúng đắn, sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Từ khóa: Đảng Cộng sản Việt Nam; đường lối, quan điểm; phát triển kinh tế tư nhân.

(Ảnh: http://lyluanchinhtri.vn)

Đặt vấn đề

Kinh tế tư nhân (KTTN) ngày càng chiếm tỷ trọng lớn và có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế đất nước. Mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo ngày càng hoàn thiện, theo đó KTTN ngày càng phát triển mạnh về số lượng, chất lượng và quy mô. Trong các nhiệm kỳ đại hội của Đảng gần đây, KTTN được xác định là động lực quan trọng của nền kinh tế và Nhà nước có nhiều quyết sách phù hợp thúc đẩy KTTN tiếp tục phát triển. Thực tiễn đã chứng minh tính đúng đắn, sáng tạo trong quan điểm, đường lối phát triển kinh tế tư nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam.

1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân

- Quan điểm “xóa bỏ chế độ tư hữu” của Mác - Ăngghen, không có nghĩa là xóa bỏ sở hữu tư nhân và KTTN trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội

Quan điểm về “xóa bỏ chế độ tư hữu” được Mác - Ăngghen trình bày trong nhiều tác phẩm, vào nhiều thời điểm khác nhau. Quan điểm nhất quán là chủ nghĩa cộng sản không xóa bỏ chế độ sở hữu nói chung, mà chỉ xóa bỏ “chế độ sở hữu tư sản” với tư cách là “biểu hiện cuối cùng và đầy đủ nhất của phương thức sản xuất và chiếm hữu sản phẩm dựa trên những đối kháng giai cấp, trên cơ sở những người này bóc lột những người kia”[8, tr.615]. Do vậy, khẩu hiệu: “Những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành một luận điểm duy nhất này là: xóa bỏ chế độ tư hữu”[8, tr.616] đã được đưa ra trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản từ năm 1848.

Qua đó có thể hiểu rằng, việc “xóa bỏ chế độ tư hữu” mà Mác - Ăngghen muốn nói đến là xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản - chế độ sở hữu mà giai cấp tư sản dùng để nô dịch lao động của người khác.

Về thời điểm xóa bỏ chế độ tư hữu, trong tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học (năm 1844) C.Mác cho rằng, việc xóa bỏ chế độ tư hữu là một vấn đề rất phức tạp, cần có thời điểm và cách thức thực hiện phù hợp chứ không thể thực hiện theo ý muốn chủ quan của con người. Cụ thể là, theo C.Mác, việc “xóa bỏ chế độ tư hữu” chỉ xảy ra trên thực tế khi mâu thuẫn giữa “lao động, bản chất chủ quan của chế độ tư hữu, với tính cách là cái loại trừ sở hữu” và “tư bản, lao động đã khách quan hóa, với tính cách là cái loại trừ lao động, đó là chế độtư hữu với tính cách là hình thức” phát triển đến “trình độ mâu thuẫn của sự đối lập”[9, tr.163] sẽ thúc đẩy giải quyết mâu thuẫn đó. Theo đó, thời điểm xóa bỏ chế độ tư hữu phụ thuộc vào sự phát triển của mâu thuẫn giữa lao động và tư bản khi “sự tập trung tư liệu sản xuất và xã hội hóa lao động đạt đến cái điểm mà chúng không còn thích hợp với cái vỏ tư bản chủ nghĩa của chúng nữa làm cho cái vỏ ấy sẽ vỡ tung ra và những kẻ đi tước đoạt bị tước đoạt”[9, tr.1059]. Do đó, từ thực trạng trình độ lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay, việc thừa nhận sở hữu tư nhân và khuyến khích KTTN phát triển là quan điểm, đường lối đúng đắn.

- “Chính sách kinh tế mới” của Lênin - cơ sở lý luận trực tiếp cho chính sách phát triển KTTN của Đảng Cộng sản Việt Nam

Kế thừa và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác vào thực tiễn nước Nga, Lênin đã đề ra “Chính sách kinh tế mới” với nội dung cơ bản là sử dụng thương nghiệp để khôi phục kinh tế, thực hiện chính sách thuế lương thực, sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước và tô nhượng cho tư bản nước ngoài để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Theo Lênin, trong bối cảnh giai cấp vô sản vừa giành được chính quyền và chưa có kinh nghiệm trong quản lý kinh tế, thì việc thực hiện ngay chế độ sở hữu xã hội đối với các tư liệu sản xuất là chưa phù hợp mà cần phát triển nhiều thành phần kinh tế để phát triển lực lượng sản xuất. Điều đó có nghĩa là, trong cơ cấu nền kinh tế quốc dân cần “có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội”[7, tr.248].

Theo đó, đối với Việt Nam, khi mà trình độ lực lượng sản xuất còn đa dạng và chưa đồng bộ, thì việc phát triển nhiều thành phần kinh tế, trong đó KTTN được xác định là một động lực quan trọng của nền kinh tế là quan điểm, đường lối đúng đắn và sáng tạo để phát triển lực lượng sản xuất và thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Do vậy, quan điểm: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; KTTN là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”[5, tr.128-129] là hoàn toàn đúng đắn và sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

- Quan điểm của Hồ Chí Minh về KTTN - khẳng định sự cần thiết phải phát triển KTTN trong công cuộc kiến thiết kinh tế nước nhà

Là người vận dụng sáng tạo và thành công chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, sau khi lãnh đạo nước nhà giành được độc lập, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến công cuộc kiến thiết đất nước về kinh tế. Không lâu sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, trong Thư gửi giới công thương Việt Nam đăng trên Báo Cứu quốc ngày 13/10/1945, Hồ Chí Minh khẳng định: “Chính phủ nhân dân và tôi sẽ tận tâm giúp giới Công - Thương trong công cuộc kiến thiết này.Việc nước và việc nhà bao giờ cũng đi đôi với nhau. Nền kinh tế quốc dân thịnh vượng nghĩa là sự kinh doanh của các nhà doanh nghiệp thịnh vượng[6, tr.53]. Quan điểm đó cho thấy, Hồ Chí Minh rất coi trọng vai trò kinh tế của giới Công - Thương trong công cuộc kiến thiết nước nhà.

Đặc  biệt,  các  quan  điểm  về  KTTN  của Hồ Chí Minh được thể hiện rõ trong tác phẩm Thường thức chính trị. Trong tác phẩm này, khi bàn về các thành phần kinh tế của chế độ dân chủ nhân dân ở nước ta, Người đã viết: “Hiện nay kinh tế nước ta có nhiều thành phần kinh tế mang tính chất tư nhân hoặc gắn với sở hữu tư nhân như kinh tế địa chủ phong kiến, kinh tế cá nhân của nông dân, kinh tế tư bản của tư nhân, kinh tế tư bản quốc gia”. Đối với kinh tế tư bản tư nhân, Người nhận định: “Kinh tế tư bản tư nhân - họ bóc lột công nhân, nhưng đồng thời họ cũng góp phần vào xây dựng kinh tế”[6, tr.266]. Cũng trong tác phẩm này,khi bàn về chính sách đối với KTTN, Người khẳng định: “Những nhà tư bản dân tộc và kinh tế cá nhân của nông dân và thủ công nghệ. Đó cũng là lực lượng cần thiết cho cuộc xây dựng kinh tế nước nhà. Cho nên Chính phủ cần giúp họ phát triển”[6, tr.267].

Có thể nhận thấy, Hồ Chí Minh luôn khẳng định sự cần thiết phải phát triển KTTN trong công cuộc kiến thiết kinh tế nước nhà. Do vậy, trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay, quan điểm: “KTTN được khuyến khích phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm, được hỗ trợ phát triển thành các công ty, tập đoàn KTTN mạnh, có sức cạnh tranh cao. Khuyến khích doanh nghiệp tư nhân hợp tác, liên kết với doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, kinh tế hộ; phát triển các công ty cổ phần có sự tham gia rộng rãi của các chủ thể xã hội, nhất là người lao động”[5, tr.130] là quan điểm, đường lối đúng đắn và sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Như  vậy,  từ  Mác  -  Ăngghen  đến  Lênin  và Hồ Chí Minh đều khẳng định sự cần thiết phải sử dụng sở hữu tư nhân và khuyến khích KTTN phát triển, hướng vào việc thực hiện các mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Do đó, quan điểm, đường lối phát triển KTTN của Đảng hiện nay thể hiện tính đúng đắn, sáng tạo trong nhận thức và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.

2. Tính đúng đắn, sáng tạo trong quan điểm, đường lối phát triển kinh tế tư nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam - nhìn từ góc độ thực tiễn

Thứ nhất, phát triển kinh tế tư nhân - quan điểm, đường lối nhất quán và mang tính chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam 

Quan điểm, đường lối phát triển KTTN của Đảng Cộng sản Việt Nam được chính thức thể hiện trong Văn kiện Đại hội VI (12/1986): “Cho phép kinh tế tư bản tư nhân sử dụng vốn, kiến thức kỹ thuật và quản lý để tổ chức sản xuất, kinh doanh... hoạt động của kinh tế tư bản tư nhân được hướng dẫn đi theo quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội bằng nhiều hình thức, theo phương châm sử dụng để cải tạo, cải tạo để sử dụng tốt hơn”[1, tr.61], quan điểm đó đã mở ra một giai đoạn mới cho sự phát triển của KTTN ở Việt Nam.

15 năm sau, Đại hội lần thứ IX (4/2001) đã nhấn mạnh: “Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ kinh tế cá thể, tiểu chủ phát triển... khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài”[2, tr.98-99]. Sau đó, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã ban hành Nghị quyết số 14-NQ/TW ngày 18/3/2002 Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển KTTN, trong đó xác định KTTN là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Đáng chú ý, tại Quyết định số 15 - QĐ/TW (8/2006) Ban Chấp hành Trung ương đã cho phép đảng viên làm KTTN. Đến đại hội XI (1/2011), KTTN được xác định là “một trong những động lực của nền kinh tế”[3, tr.209] và hiện nay là “một động lực quan trọng của nền kinh tế”[4, tr.103].

Nhìn lại chặng đường hơn 35 đổi mới, đặc biệt là từ những đóng góp của KTTN. Văn kiện Đại hội XIII tiếp tục đưa ra những quan điểm về KTTN, trong đó nhất quán chủ trương: “Tạo mọi điều kiện thuận lợi để KTTN phát triển nhanh, bền vững, lớn mạnh về quy mô, nâng cao về chất lượng”[5, tr.45] với quan điểm chủ đạo là “Xóa bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển KTTN”[5, tr.240]. Đặc biệt, để đưa KTTN thực sự trở thành một động lực quan trọng trong quá trình thực hiện khát vọng hùng cường của đất nước vào giữa thế kỷ XXI, văn kiện Đại hội XIII đã đề ra mục tiêu đến năm 2025 “có khoảng 1,5 triệu doanh nghiệp hoạt động với tỷ trọng đóng góp của khu vực KTTN vào GDP khoảng 55%”[5, tr.126] và đến năm 2030 “có ít nhất 2 triệu doanh nghiệp với tỷ trọng đóng góp của khu vực KTTN vào GDP đạt 60 - 65%”[5, tr.240].

Thứ hai, một số đóng góp của kinh tế tư nhân - cơ sở thực tiễn khẳng định tính đúng đắn trong quan điểm, đường lối phát triển kinh tế tư nhân của Đảng

Không thể phủ nhận rằng, trong thời kỳ đổi mới, KTTN đã trở thành một điểm sáng của nền kinh tế Việt Nam. Hiện nay, KTTN đang đóng góp 42% GDP, 53% cơ cấu vốn và 85% việc làm cho nền kinh tế[11].

Đáng chú ý, tính đúng đắn và sáng tạo trong quan điểm, đường lối phát triển KTTN của Đảng đã thúc đẩy sự hình thành đội ngũ Doanh nhân Việt Nam, khi Việt Nam đã có hơn 800 nghìn doanh nghiệp, khoảng 5,2 triệu hộ kinh doanh với số lượng doanh nhân hơn 5 triệu người. Con số trên đã minh chứng việc mở đường cho doanh nghiệp phát triển là hướng đi đúng đắn, nhiều doanh nhân Việt Nam đã trở thành “tỷ phú USD” toàn cầu. Họ ôm giấc mơ lớn, hoài bão lớn với mong muốn đóng góp để xây dựng đất nước hùng cường, người dân giàu mạnh, xã hội văn minh[10].

Trong vấn đề thu hút lao động và giải quyết việc làm, KTTN luôn thể hiện tính hấp dẫn, khả năng thu hút, khai thác và sử dụng một bộ phận không nhỏ lực lượng lao động trong xã hội. Số liệu do Tổng cục Thống kê Việt Nam công bố hàng năm cho thấy, trong 10 năm gần đây, tỷ trọng lao động đang làm việc trong khu vực KTTN luôn tăng và chiếm đa số lực lượng lao động xã hội. Cụ thể, năm 2010 số lao động làm việc trong khu vực KTTN là 43.873 ngàn người (chiếm 80,3% lực lượng lao động đang có việc làm của cả nước) thì đến năm 2015 con số này là 47.906 ngàn người (chiếm 82,5%) và năm 2020 tăng lên 49.586 ngàn người (chiếm 85,7%). Đó là những con số hết sức thuyết phục để minh chứng tính đúng đắn và sáng tạo trong quan điểm, đường lối phát triển KTTN của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Kết luận

Phát triển KTTN là quan điểm, đường lối đúng đắn và sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Quan điểm, đường lối đó được xây dựng dựa trên những luận điểm khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về sở hữu tư nhân và KTTN, đồng thời phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Trong bối cảnh mới hiện nay, việc hoạch định quan điểm, đường lối phát triển KTTN, không chỉ là sự kế tục các quan điểm, đường lối nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam, mà còn cần phải cập nhật được các thành tựu mới trong nghiên cứu về chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về các vấn đề liên quan, cũng như các nội dung mới trong nghiên cứu về sở hữu tư nhân và KTTN. Đặc biệt, để hoàn thiện quan điểm, đường lối phát triển KTTN của Đảng Cộng sản Việt Nam, cần định kỳ tiến hành công tác sơ kết, tổng kết việc thực hiện các Nghị quyết, Quyết định, Kết luận đã ban hành về phát triển KTTN, nhằm kịp thời tháo gỡ khó khăn, trở ngại mà KTTN Việt Nam đang gặp phải, làm cho quan điểm, đường lối phát triển KTTN của Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là đúng đắn và sáng tạo, mà còn là động lực pháp lý trực tiếp thúc đẩy KTTN phát triển, đưa KTTN thực sự trở thành một động lực quan trọng trong quá trình hiện thực hoá khát vọng hùng cường của đất nước đã được Đại hội XIII của Đảng xác định.


Tài liệu tham khảo:

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[6] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[7] V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 43, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva.

[8] C. Mác và Ph. Ăngghen (2000), Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[9] C. Mác và Ph. Ăngghen (2000), Toàn tập, tập 42, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[10] Sức mạnh doanh nhân Việt Nam, https://nhandan.vn

[11] Sự lớn mạnh của kinh tế tư nhân, http://www.xaydungdang.org.vn

Đọc thêm

Việt Nam tích cực, chủ động hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng góp phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa trong tình hình mới

Tác giả: NGUYỄN ĐỨC HẠNH

(GDLL) - Hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng là một xu thế tất yếu, hàm chứa cả cơ hội và thách thức đối với các quốc gia trên con đường phát triển. Trong những năm qua, Việt Nam luôn tích cực, chủ động hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa từ sớm, từ xa. Trên cơ sở khái quát bối cảnh tình hình tác động và những kết quả nổi bật trong tích cực, chủ động hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng những năm qua bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả việc tích cực, chủ động hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng của Việt Nam trong tình hình mới.

Bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc trong đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới của Việt Nam

Tác giả: NGUYỄN ANH CƯỜNG - HOÀNG ANH TÚ - TRIỆU THANH CHÚC

(GDLL) - Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về lợi ích quốc gia - dân tộc, bài viết phân tích sự kiên định về lợi ích quốc gia - dân tộc trong đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới của Việt Nam và khẳng định việc bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc trong chính sách đối ngoại của Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn.

Phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng và khuyến nghị

Tác giả: PHẠM TÚ TÀI - CHU THỊ LÊ ANH

(GDLL) - Phát triển mạnh khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số được Đảng xác định là động lực chính của tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn hiện nay. Bài viết phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về tăng trưởng kinh tế dựa vào khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm cơ sở khẳng định đây là động lực mới, quan trọng cho tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững. Đồng thời, bài viết cũng tập trung đánh giá thực trạng, đề xuất một số kiến nghị, giải pháp thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số ở Việt Nam trong thời gian tới.

Quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong Nghị quyết 27-NQ/TW

Tác giả: TRẦN THỊ THANH MAI

(GDLL) - Sự ra đời của Nghị quyết số 27- NQ/TW Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII ngày 09/11/2022 Về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bài viết tập trung làm rõ một số quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, qua đó thấy được giá trị lý luận và thực tiễn của Nghị quyết.

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về bảo vệ an ninh quốc gia trong thời kỳ mới

Tác giả: NGUYỄN VĂN NGHĨA

(GDLL) - An ninh quốc gia và bảo vệ an ninh quốc gia là vấn đề hệ trọng của mỗi quốc gia, dân tộc. Hiện nay, Việt Nam đang phải đối diện với nhiều thách thức trong lĩnh vực an ninh quốc gia, trong đó có cả những vấn đề an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống. Công tác bảo vệ an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm lãnh đạo, nhất là trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Bài viết khái quát quan điểm của Đảng về bảo vệ an ninh quốc gia, thực tiễn về bảo vệ an ninh quốc gia và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia trong thời kỳ mới.