Từ
khóa:Đại hội XIII
của Đảng; Tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm “lấy dân làm gốc”.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với đồng bào dân tộc
thôn Konrơ Bàng 2 (xã Vinh Quang, thành phố Kon Tum. (Ảnh: TTXVN)
Đặt vấn
đề
Ở Việt Nam, quan điểm “lấy dân làm gốc” đã sớm
được vận dụng và có cơ sở phát huy bởi thực tiễn dựng nước, giữ nước của dân
tộc. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn vì
lợi ích của nhân dân, coi hạnh phúc của nhân dân là mục tiêu cao nhất, cuối
cùng của cách mạng Việt Nam. Trên cơ sở truyền thống yêu nước, đoàn kết của dân
tộc, Đảng đã vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào
điều kiện cụ thể Việt Nam để khai thác, phát huy có hiệu quả cao nhất sức mạnh
tổng hợp của nhân dân, của dân tộc. Sức mạnh nội sinh ấy ngày càng lớn mạnh, nó
đã và đang đưa dân tộc ta đến với những tầm cao mới của sự phát triển. Trong
Văn kiện Đại hội XIII quan điểm “lấy dân làm gốc” của Đảng một lần nữa được đặc
biệt nhấn mạnh.
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về quần chúng nhân dân
Bàn về vai trò của quần chúng nhân dân, trong
tác phẩm Góp phần phê phán triết học
pháp quyền của Hêghen, C.Mác đã chỉ rõ: “Chủ quyền của nhân dân
không phải là cái phát sinh từ chủ quyền của nhà vua, mà ngược lại, chủ quyền
của nhà vua dựa trên chủ quyền của nhân dân”[1;347] Bổ
sung, phát triển, hoàn thiện tư tưởng của C.Mác - Ph. Ăngghen và vận dụng tư
tưởng ấy vào hiện thực cách mạng, V.I.Lênin cũng khẳng định: “Không có sự đồng
tình ủng hộ của đại đa số nhân dân lao động đối với đội tiền phong của mình,
tức là đối với giai cấp vô sản, thì cách mạng vô sản không thể thực hiện được”[11;251]. Do
vậy, theo Lênin, Đảng Cộng sản nói chung và từng đảng viên nói riêng phải “Sống
trong lòng quần chúng/Biết tâm trạng quần chúng/Biết tất cả/Hiểu quần
chúng/Biết đến với quần chúng/Giành được lòng tin tuyệt đối của quần chúng”[11;408].
Có thể thấy rằng, nội hàm và ngoại diên khái
niệm quần chúng nhân dân không mang tính cố định mà nó là phạm trù lịch sử,
thay đổi tùy thuộc vào điều kiện lịch sử, xã hội cụ thể của quốc gia, khu vực.
Song về cơ bản, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, quần chúng nhân dân
bao giờ cũng gồm: những người lao động sản xuất ra của cải vật chất và tinh
thần; lực lượng chống lại thế lực áp bức, bóc lột; lực lượng trực tiếp hoặc
gián tiếp góp phần vào sự biến đổi của xã hội... trong đó, lực lượng sản xuất xã hội là cơ bản, nòng cốt, chủ chốt và chủ
yếu. Chính cách khoanh vùng, định vị nội hàm và ngoại diên mở của phạm trù
“quần chúng nhân dân” đã cho thấy tính khoa học, nhân văn, cách mạng của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Chủ nghĩa Mác -Lênin khẳng định mọi sự vận động, biến
đổi của xã hội đều do hoạt động của quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của tổ
chức, tập thể, cá nhân nhằm đạt tới những mục tiêu nhất định. Chủ nghĩa Mác -
Lênin đã chỉ rõ vai trò của quần chúng nhân dân với tư cách là lực lượng, động
lực, mục đích của chính cuộc cách mạng, cuộc đấu tranh để đạt tới sự giải phóng
con người theo đúng nghĩa.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin đã được
Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Người
nhận thấy rằng sức mạnh nhân dân của ta không chỉ là sức mạnh của số đông mà là
sức mạnh của cả dân tộc và sức mạnh ấy được bồi đắp không ngừng bởi lòng yêu
nước. Người viết: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý
báu của dân tộc ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần
ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua
mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”[9;38]. Kế
thừa và nhất quán với quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: “có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng
được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết
nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi,
những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”[8;335] Sau
cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh kết luận: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân.
Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”[10;453]
Hiểu sâu sắc tính chất
riêng có của Việt Nam so với cách mạng thế giới, Chủ tịch Hồ
Chí Minh luôn đặt niềm tin sâu sắc vào sức mạnh vô địch của nhân dân. Sau tất
cả, hạnh phúc của nhân dân luôn là mục tiêu cao nhất, Người chủ trương: “Cách
làm là: dựa vào: Lực lượng của dân, Tinh thần của dân, để gây: Hạnh phúc cho
dân”[8;556]. Chủ trương này của
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã và đang tiếp tục được quán triệt, được triển khai một
cách có lộ trình, hiệu quả, thống nhất trong từng giai đoạn cách mạng của nước
ta.
2. Quan điểm nhất quán, phát triển
của Đảng Cộng sản Việt Nam về “lấy dân làm gốc”
Thứ nhất, nhận thức của Đảng về vị trí, vai trò của
quần chúng nhân dân có tính thống nhất, toàn diện, phát triển và sâu sắc hơn
qua từng kì đại hội
Lấy Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về vai trò của quần chúng nhân dân làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam hành
động và quán triệt quan điểm lấy dân làm gốc, trong quá trình lãnh đạo, Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định vai trò của quần chúng nhân dân, xem lợi ích
chung của nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp đổi mới. Đây
là một trong những nội dung có tính thống nhất, xuyên suốt các kì đại hội Đảng.
Dấu mốc đầu tiên, điểm nút có tính bước ngoặt của thời kì mới trong lịch sử dân
tộc chính là Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Sau 10 năm thống nhất đất
nước, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, vượt qua nhiều khó khăn, đối mặt với
nhiều thách thức, Đại hội VI đã rút ra bốn bài học kinh nghiệm thì trong đó bài
học đầu tiên là: “Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư
tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao
động” [3;362]. Đại hội VI có thể coi là một bước nhảy vọt
về chất khi cởi được nút thắt, tìm ra nguyên nhân căn bản và thẳng thắn thừa
nhận sai lầm về: chỉ đạo chiến lược, tổ chức thực hiện, công tác tư tưởng và
công tác cán bộ của Đảng [3;548]. Đại hội VI đã khẳng định: “Mọi chủ trương,
chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng và khả năng của nhân
dân lao động, phải khơi dậy được sự đồng tình, hưởng ứng của quần chúng. Quan
liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng, đi ngược lại lợi ích của nhân dân là làm
suy yếu sức mạnh của Đảng” [3;363]
Bài học về sức mạnh của nhân dân tiếp tục được
khẳng định ở Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội: “Sự nghiệp cách mạng là của Nhân dân, do Nhân
dân và vì Nhân dân. Chính Nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử. Toàn bộ
hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của Nhân
dân”[2;5]. Đại hội VII tiếp tục nhìn nhận chặng đường
năm năm đổi mới xây dựng đất nước và khẳng định: “Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn
bó mật thiết với Nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời Nhân dân sẽ đưa đến
những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất nước” [2;5]. Do
đó Đảng chủ trương: Phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những
đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác,
xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện
quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị [4;82].
Có thể thấy rằng, qua các kì đại hội, từ Đại
hội VI đến Đại hội X, quan điểm của Đảng về vị trí, vai trò của quần chúng nhân
dân đều cho thấy tính thống nhất, toàn diện, phát triển. Tiếp nối và thống nhất
với các kì đại hội trước, Đại hội X, XI tiếp tục nhấn mạnh việc xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh với vai trò là khâu then chốt, là nhân tố quyết định
thắng lợi của sự nghiệp đổi mới. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là yêu cầu cần thiết của xã
hội; Nhà nước phải thể chế hóa và tổ chức thực hiện có hiệu quả quyền công dân,
quyền con người. Tại Đại hội XII, Đảng đã quán triệt sâu sắc bài học kinh
nghiệm: “Đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm lấy “dân làm gốc”, vì lợi
ích của Nhân dân, dựa vào Nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách
nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của Nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân” [6;69].
Dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác -Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng vào điều kiện cụ thể trong công cuộc đổi mới, xây
dựng và đẩy nhanh tiến trình hội nhập của đất nước, nhận thức của Đảng về vị
trí, vai trò của quần chúng nhân dân ngày càng sâu sắc hơn qua từng kì đại hội.
Tin vào dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc, trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng đều
lấy độc lập dân tộc, hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu, lấy việc thực thi, mở
rộng quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa làm thước đo, làm tiêu chí đánh giá mức độ
hoàn thành nhiệm vụ từng giai đoạn phát triển đất nước. Đây có thể xem là điểm
xuất phát đúng đắn, sức mạnh nội sinh, động lực đưa đến mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam.
Thứ hai, Đảng luôn đề ra mục tiêu, nhiệm vụ thực hiện mở rộng
quyền dân chủ nhân dân ngày một cao hơn
Thực tế là, ngay từ đầu, đặc trưng cơ bản của
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đã được Đảng ta xác định là: tất cả mọi quyền lực
đều thuộc về nhân dân. Do đó, một cách tất yếu, việc thực hiện, mở rộng dân
chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trở thành nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng Việt Nam. Theo một cách
hiểu khác, thực thi dân chủ, mở rộng dân chủ không chỉ là thước đo sự phát
triển, sự văn minh ở từng giai đoạn lịch sử mà đối với Đảng Cộng sản Việt Nam,
có thể xem đó như vấn đề mang tính sống còn của chế độ.
Phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra” được Đảng ta chính thức đề ra và trở thành một chủ trương lớn, một
phương châm hành động cụ thể từ Đại hội V. Đến Đại hội VI, bước ngoặt quan
trọng đánh dấu chặng đường đổi mới của đất nước, Đảng đã khẳng định: tiếp tục
phát huy ngày càng sâu rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhưng để phát huy dân
chủ đúng hướng và đạt kết quả thì quá trình đó phải được lãnh đạo tốt, có bước
đi vững chắc phù hợp với tình hình chính trị, xã hội nói chung. Sau này, trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) đã nêu rõ: Đảng lãnh đạo hệ thống chính
trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng liên hệ mật thiết với nhân
dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp
luật [4;146]. Tuy nhiên, phải
đến Đại hội lần thứ VIII, Đảng Cộng sản Việt Nam mới chính thức đề ra cơ chế
một cách cụ thể để thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm và dân
kiểm tra”. Với việc ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW “Về xây dựng và thực hiện Quy
chế dân chủ ở cơ sở”, đánh dấu sự phát triển mới với việc quyền dân chủ của
nhân dân được triển khai, thực thi trong thực tế. Người dân từng bước thực hiện
quyền “sau bầu cử” đối với các đại biểu dân cử làm đại diện và cơ quan nhà nước
mà dân lập nên.
Đại hội IX của Đảng đã khẳng định: Những bài
học đổi mới do các Đại hội VI, VII, VIII của Đảng nêu lên đến nay vẫn còn có
giá trị lớn trong đó có bài học đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích
của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo. Đại hội IX đã ban hành
Chỉ thị số 10-CT/TW về “Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và thực hiện Quy chế
dân chủ ở cơ sở”. Đại hội XII xác định bản chất “Nhân dân làm chủ”, “Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước của dân, do dân, vì dân”. Đảng nhấn mạnh việc
cần thực hiện có hiệu quả các cơ chế, chính sách phát huy vai trò của nhân dân
trong việc quyết định những vấn đề lớn của đất nước; bảo đảm tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân [6;159]. Tiếp tục thực hiện tốt
dân chủ cơ sở; thể chế hóa và thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra” [6;39]
Có thể khẳng định rằng, qua các kỳ đại hội, sự
phát triển tư duy lý luận về dân chủ, xác
định khâu cơ bản quan trọng, hoàn thiện chủ trương, xây dựng quy chế, đẩy mạnh
việc thực hiện phương châm căn bản “lấy dân làm gốc” theo hệ chuẩn “dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”... đã cho thấy sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh của
Đảng Cộng sản Việt Nam vào điều kiện cụ thể của đất nước, từng bước một vai trò
chủ thể của nhân dân, quyền làm chủ của nhân dân đã được hiện thực hóa và phát
huy một cách rộng rãi, hiệu quả.
3. Sự phát triển, hoàn thiện “Bài
học về dân” trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng
Tại Đại hội XIII, trên cơ sở tổng kết những
thành tựu, những hạn chế sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII, Đảng đã
rút ra năm bài học kinh nghiệm trong đó bài học thứ hai là: Trong mọi công việc
của Đảng phải luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là
gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên
trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám
sát, dân thụ hưởng”... lấy hạnh phúc ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu;
củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã
hội chủ nghĩa [7;96]
“Dân biết” là nhân dân hiểu và nắm rõ
được chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đây
được hiểu là quyền và cũng là nghĩa vụ của người dân. Các cơ quan, tổ chức,
chính quyền... phải công khai, minh bạch thông tin trừ các thông tin bí mật
quốc gia. Quyền được biết của người dân chính là xuất phát điểm, là tiền đề để
người dân thực hiện quyền được nói - “dân bàn” vì có hiểu biết, có nắm được
thông tin mới có thể bàn bạc, góp ý kiến. “Dân bàn” là nhân dân được quyền
tham gia thảo luận, bàn bạc, ý kiến, góp ý với Đảng và Nhà nước góp phần để
việc xây dựng, hoạch định, thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách, pháp
luật được thực hiện một cách chính xác, phù hợp, hiệu quả. Việc dân được bàn
ở những nội dung nào và cách thức ra sao có quy định cụ thể, rõ ràng. Quyền
được hỏi để được biết và được bàn nhưng không được dân chủ quá trớn, không được
“lạm bàn” cũng như được tự do ngôn luận song không phải người dân muốn nói gì,
ý kiến gì và bàn gì cũng được mà phải theo quy định, đúng tổ chức, đúng đối
tượng và đúng hoàn cảnh. Các cơ quan, tổ chức, chính quyền, đoàn thể phải bố
trí lực lượng trực tiếp để tiếp dân, lắng nghe ý kiến của người dân, tôn trọng
quyền dân chủ của nhân dân để động viên người dân tham gia các công việc chung
xây dựng đất nước. Theo logic này, tất yếu sẽ đến bước thứ ba - “dân làm”. “Dân
làm” là nhân dân tiến hành thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật,
thực hiện vai trò chủ thể của mình, góp sức vào công cuộc phát triển chung của
đơn vị, địa phương, đất nước.
“Dân kiểm tra” là việc nhân
dân xem xét, đánh giá thực tế thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách, pháp
luật, nếu phát hiện những sai phạm thì phản ánh, báo cáo cho các cơ quan chức năng. “Dân giám sát” là nhân
dân theo dõi, xem xét, đánh giá quá trình thực hiện, kết quả thực hiện chủ
trương, đường lối, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án, công
việc thực hiện. Trên thực tế quyền kiểm tra và giám sát của người dân có những
điểm tương đồng và khác biệt. Về cơ bản, quyền kiểm tra có tính chất thời điểm
trong khi quyền giám sát nghiêng về tính quá trình. Việc bổ sung nội dung “dân
giám sát” cho thấy tư duy phát triển của Đảng với việc trao thêm quyền cho nhân
dân, xây dựng một lực lượng đông đảo theo dõi sự vận hành, hoạt động của các cơ
quan, đoàn thể, cá nhân để kịp thời phát hiện sai phạm, phát huy thành tựu trên
từng “bước nhảy” cũng như trong cả quá trình. Sau khi biết, bàn, kiểm tra, giám
sát, với tư cách là chủ thể người dân thụ hưởng chính thành quả xã hội mà ở đó
mình là thành viên đóng góp. “Dân thụ hưởng” là giá trị, thành quả nhân dân
được nhận bao gồm giá trị vật chất, tinh thần có được sau quá trình triển khai
các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật vào thực tiễn đời sống xã hội.
Đây là quyền lợi chính đáng của người dân, chủ trương này đòi hỏi phải có sự
chung tay, sự phối hợp, sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị. Để thể chế hóa nội
dung này, cần tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đấu tranh chống bệnh dân chủ hình
thức, dân chủ cào bằng đồng thời mở rộng và đảm bảo tính thực chất của cơ chế
dân chủ cơ sở.
Việc mở rộng, bổ sung thêm quyền giám sát và
thụ hưởng của người dân, Đại hội XIII thực sự đặt dấu mốc cho một sự phát triển
về chất đối với việc mở rộng quyền dân chủ của nhân dân. Trong tính biện chứng
vốn có của mình, phương châm lấy dân làm
gốc, “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đã cho thấy logic tất yếu của
quá trình thực thi và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Bốn dân không tách
dời mà gắn bó chặt chẽ trong một con đường biện chứng. Bổ sung thêm “dân giám
sát, dân thụ hưởng” cho thấy tính nhân văn của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
đồng thời nhất quán với chủ trương: Tất cả vì nhân dân của Đảng và Nhà nước đề
ra. Mọi công việc, mọi vấn đề quan trọng người dân đều có quyền được biết, được
bàn, được làm, được kiểm tra, được giám sát và sau cùng, không phải ai khác,
chính họ là người được thụ hưởng.
Kết luận
Tóm lại, để mục tiêu tối thượng của nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng tiệm cận gần hơn đến những giá trị đích thực của
nó - tất cả vì nhân dân, trong thời gian tới, cần tiếp tục được triển khai một
cách có hiệu quả phương châm “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra, dân giám sát,
dân thụ hưởng” theo tinh thần Đại hội XIII. Muốn vậy, một mặt cần nghiên cứu,
thể chế hóa nội dung “giám sát, thụ hưởng” mặt khác cần tiếp tục có sự thống
nhất về nhận thức, hành động, cơ chế triển khai, phối hợp của tất cả các ban
ngành, đoàn thể và người dân trong việc thực thi dân chủ trên cơ sở tính đến kế
hoạch xây dựng hành lang pháp lí, khung tiêu chí đánh giá, hệ chuẩn cũng như
chế tài để phát huy quyền làm chủ của nhân dân gắn với trách nhiệm. Sự đồng
lòng, nhất trí cao của toàn Đảng, toàn dân, sự phối hợp thống nhất, nhịp nhàng
của toàn hệ thống chính trị vì mục tiêu chung chính là điều kiện cần và đủ để
Việt Nam tiếp tục thu hái những thành tựu mới trong tiến trình hội nhập, phát
triển đất nước vì mục tiêu nâng cao chỉ số hạnh phúc của nhân dân.
Tài liệu tham khảo:
[1] C.Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb.Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam
(1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam
(2006),Văn kiện Đảng toàn tập, tập 47, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 51, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam
(2013), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp
hành Trung ương khóa XI, Nxb.Chính trị quốc gia - Sự
thật, Hà Nội.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung
ương Đảng, Hà Nội.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
tập I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
[8] Hồ Chí Minh (2011), Toàn
tập,
tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
[9] Hồ Chí Minh (2011), Toàn
tập, tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
[10] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 10, Nxb. Chính
trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
[11] V.I. Lênin (1979), Toàn
tập, tập39, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva.