Thứ Hai, ngày 15/07/2024, 09:03

Một số giải pháp góp phần đẩy mạnh chuyển đổi số theo định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030

Đỗ Hoàng Xa
Trường Cao đẳng nghề Việt Nam - Hàn Quốc Cà Mau.

(GDLL) - Chuyển đổi số là yêu cầu tất yếu, khách quan của sự phát triển, bài viết làm rõ quan điểm, chủ trương, nhận thức của Đảng, Nhà nước về chuyển đổi số trong thời kỳ mới. Trên cơ sở đó khái quát những thành tựu và hạn chế của quá trình chuyển đổi số, đề xuất một số giải pháp đẩy nhanh tốc độ chuyển đổi số, tạo đột phá phát triển bền vững đất nước.

 

Hội thảo quốc tế năm “Động lực đổi mới sáng tạo trong bối cảnh chuyển đổi số - Từ tầm nhìn đến thực tế

Ảnh: Văn Điệp - TTXVN

 

Đặt vấn đề

Chuyển đổi số là động lực thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nhận thức rõ vị trí, vai trò và tầm quan trọng của chuyển đổi số đối với sự phát triển bền vững của đất nước, Đại hội XIII của Đảng (2021) đã đưa ra chủ trương, định hướng lớn về đẩy mạnh chuyển đổi số trên thế “kiềng ba chân” là Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số góp phần tạo đột phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế trong giai đoạn 2021 - 2030.

1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về chuyển đổi số

Để thích ứng với bối cảnh đất nước, tận dụng thành tựu tiên tiến của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, ngày 27/09/2019, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 52-NQ-TW Về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, trong đó nhấn mạnh yêu cầu “hoàn thiện thể chế tạo thuận lợi cho chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và quá trình chuyển đổi số quốc gia”[2]. Trên cơ sở đó, ngày 14/01/2020, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 01/CT-TTg Về thúc đẩy phát triển doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam, khẳng định: “Chuyển đổi số đang tạo ra không gian phát triển mới - kinh tế số, xã hội số, Chính phủ điện tử. Đặc biệt, chuyển đổi số mở ra cơ hội to lớn cho Việt Nam phát triển đột phá, nhanh chóng bắt kịp các nước phát triển cũng chỉ mới bắt đầu quá trình chuyển đổi số”[9, tr. 1].Ngày 03/06/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg về Phê duyệt Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 với mục tiêu năm 2030 thuộc nhóm 50 nước dẫn đầu về Chính phủ điện tử, kinh tế số đóng góp 30% GDP, năng suất lao động hằng năm tăng tối thiểu 8%[10, tr. 3]. Việc ban hành Chương trình chuyển đổi số quốc gia là bước ngoặt quan trọng giúp Việt Nam trở thành quốc gia có nhận thức về chuyển đổi số song hành cùng với các quốc gia tiên tiến trên thế giới.

Trong các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII (2021), khái niệm chuyển đổi số lần đầu tiên được đề cập và nhấn mạnh nhiều lần với nhiều nội dung, ở những phần khác nhau của mục tiêu, quan điểm phát triển và các đột phá chiến lược, liên quan đến từng lĩnh vực cụ thể. Đây là điểm mới trong chiến lược phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030 của Đảng. Đại hội XIII đặt ra yêu cầu: “đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo; gắn kết hài hòa, hiệu quả thị trường trong nước và quốc tế; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế”[4, tr. 114-115]. Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030, Đại hội nêu mục tiêu, đến năm 2030, hoàn thành xây dựng chính phủ số, đứng trong nhóm 50 quốc gia hàng đầu thế giới và xếp thứ ba trong khu vực ASEAN về chính phủ điện tử, kinh tế số”[4, tr. 225]. Đại hội XIII của Đảng đã làm rõ hơn, cụ thể hơn nhận thức về vị trí, vai trò của chuyển đổi số đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Những chủ trương, quan điểm của Đảng tại Đại hội XIII về đẩy mạnh chuyển đổi số đã góp phần mở đường cho định hướng phát triển đất nước trong kỷ nguyên số. Đây là điều kiện thuận lợi để Việt Nam khai thác triệt để cơ hội mà cuộc Cách mạng 4.0 mang lại, bứt phá vươn lên thay đổi thứ hạng. Quán triệt chủ trương của Đảng, ngày 15/6/2021, Thủ tướng tiếp tục ban hành Quyết định số 1690/QĐ - TTg ngày 26/12/2023 về Phê duyệt Đề án “Kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực quản lý nhà nước và thực thi pháp luật về chuyển đổi số từ trung ương đến địa phương đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. Năm 2024, Ủy ban Quốc gia về Chuyển đổi số ban hành Quyết định số 58/QĐ-UBQGCĐS ngày 19/4/2024 Về việc Ban hành Kế hoạch hoạt động năm 2024 của Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số...

2. Thực trạng chuyển đổi số ở Việt Nam

2.1. Kết quả đạt được

Hạ tầng công nghệ thông tin, các nền tảng số tiếp tục được phát triển từ trung ương đến địa phương, đáp ứng tốt nhu cầu chuyển đổi số. Mạng truyền số liệu chuyên dùng của các cơ quan Đảng, Nhà nước kết nối với bốn cấp hành chính tiếp tục được phát triển, đã kết nối đến 100% huyện và hơn 97% các xã trên toàn quốc. Cả nước đã phát triển được 35 nền tảng số quốc gia, trong đó có 31 nền tảng số đang sử dụng thử nghiệm. Bên cạnh đó, các bộ, ngành đã phối hợp phát triển 50 nền tảng số khác, trong đó 18 nền tảng phục vụ Chính phủ số, 16 nền tảng phục vụ kinh tế số, 16 nền tảng phục vụ xã hội số[11]. Đến tháng 12/2023, số lượt doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận, tham gia chương trình SMEdx: khoảng 1,1 triệu (+55,6% so với năm 2022); số lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa sử dụng nền tảng số SMEdx: 197 nghìn (+157% so với năm 2022)[12].

Trong lĩnh vực cải cách hành chính, chuyển đổi số đã góp phần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong giải quyết các thủ tục hành chính. Năm 2023, 100% bộ, ngành, địa phương đã rà soát và ban hành danh mục thủ tục hành chính đủ điều kiện trong phạm vi bộ, ngành, địa phương để triển khai dịch vụ công trực tuyến theo quy định tại Nghị định số 42/2022/NĐ-CP. Với sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự nỗ lực của các bộ, ngành, địa phương triển khai 81% thủ tục hành chính là dịch vụ công trực tuyến, trong đó 48,5% thủ tục hành chính được triển khai là dịch vụ công trực tuyến toàn trình. Tính đến tháng 12/2023, có 49/63 tỉnh đã ban hành chính sách giảm phí, lệ phí và 13/63 tỉnh đã ban hành chính sách giảm thời gian để khuyến khích người dân sử dụng dịch vụ công trực tuyến[12].

Trong lĩnh vực kinh tế, chuyển đổi số đã góp phần quan trọng giúp Việt Nam thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình. Theo báo cáo “e-Conomy SEA 2021” do Tập đoàn Google, Bain (Mỹ) và Temasek (Singapore) phối hợp công bố, nền kinh tế internet của Việt Nam năm 2021 đạt giá trị 21 tỷ USD, đóng góp hơn 5% GDP của đất nước, cao gấp 7 lần năm 2015 và dự kiến đạt 57 tỷ USD năm 2025, đứng thứ hai trong khu vực Đông Nam Á, tốc độ tăng trưởng năm 2021 đạt 31%[7]. Một số chỉ tiêu về chuyển đổi số trong Kế hoạch hoạt động của Ủy ban Quốc gia đã sớm đạt mục tiêu như tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng hóa đơn điện tử là 100%, tỷ trọng doanh thu thương mại điện tử trong tổng mức bán lẻ là 11,27%, vượt mục tiêu đề ra là 7%; tỉ lệ người dân từ 15 tuổi có tài khoản thanh toán là 66%, vượt mục tiêu đề ra là 65%[12].

Trong lĩnh vực an ninh quốc gia, năm 2023, Bộ Thông tin và Truyền thông đã ghi nhận, cảnh báo và hướng dẫn xử lý hơn 12,8 nghìn cuộc tấn công, lừa đảo theo phương thức: có 11,5 nghìn Phishing (giả mạo), khoảng 500 Deface (thay đổi giao diện), hơn 800 Malware (mã độc), tăng 5,3% so với năm 2022; hơn 3,3 nghìn website vi phạm, lừa đảo đã bị ngăn chặn, qua đó giúp bảo vệ 3,6 triệu người dân trên môi trường trực tuyến. Số lượng địa chỉ IP Việt Nam nằm trong các mạng botnet (mạng máy tính ma) là 456,7 nghìn địa chỉ, giảm 4,7% so với cùng năm 2022 (479,1 nghìn địa chỉ)[12]. Gần đây, Bộ Công an đã tích cực phối hợp với các bộ ngành triển khai dữ liệu cơ sở quốc gia về dân cư, kết nối và mở rộng dữ liệu dân cư, từng bước hình thành hệ sinh thái công dân số phục vụ công tác an ninh quốc gia.

Trong lĩnh vực y tế, các hệ thống phần mềm y tế bảo đảm kết nối liên thông, chia sẻ tích hợp dữ liệu tạo tiền đề cho việc nâng cao khả năng tự động hóa. Cơ sở hạ tầng phục vụ cho y tế từng bước được hoàn thiện. Đến nay, 100% bệnh viện đã triển khai tin học hóa, số hóa dịch vụ khám chữa bệnh và quản lý bệnh viện, 99,5% cơ sở y tế trên toàn quốc đã kết nối liên thông với hệ thống giám định của bảo hiểm xã hội[3]. Đặc biệt, đề án khám, chữa bệnh từ xa thông qua hệ thống Telehealth với 1.000 cơ sở y tế đã được kết nối, qua đó xóa bỏ khoảng cách y tế giữa các vùng miền, các tuyến trung ương và địa phương, nhờ đó giảm tỷ lệ chuyển tuyến xuống dưới 10% so với tỷ lệ 30% trước đây[6].

Trong lĩnh vực giáo dục, việc áp dụng công nghệ thông tin trong dạy, học và quản lý đã có nhiều chuyển biến lớn góp phần rút ngắn quá trình đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục, nhất là đối với vùng sâu, vùng xa. Đến tháng 10/2023, ngành Giáo dục đã hoàn thành cơ bản việc xây dựng, cụ thể, cơ sở dữ liệu về mầm non, phổ thông đã thu thập thông tin của gần 53.000 trường học: 1,6 triệu hồ sơ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục; 24 triệu hồ sơ cá nhân, kết quả học tập, thông tin thể chất của học sinh; Kết nối (API) với hơn 17,083 trường học[1]. Đặc biệt, đã triển khai được cơ sở dữ liệu giáo dục đại học (HEMIS). Qua đó, thu thập, số hóa dữ liệu của 442 cơ sở đào tạo, 152.470 giảng viên, 2.102.165 người học và dữ liệu về: nghiên cứu khoa học, cơ sở vật chất, tài chính, hợp tác với doanh nghiệp, hợp tác quốc tế...[8].

2.2. Hạn chế, khó khăn

Bên cạnh những kết quả đạt được, công cuộc chuyển đổi số còn một số hạn chế như: việc xây dựng, hoàn thiện môi trường pháp lý, cơ chế, chính sách còn chậm so với yêu cầu phát triển; vẫn chưa ban hành được phương pháp đo lường tỷ trọng kinh tế số trong GDP, tỉ trọng kinh tế số trong từng ngành lĩnh vực. Chất lượng dịch vụ công trực tuyến còn chưa cao. Phát triển hạ tầng số còn gặp nhiều khó khăn, thách thức. Công tác bảo đảm an ninh, an toàn các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu, bảo vệ dữ liệu cá nhân còn nhiều hạn chế, bất cập. Nhân lực số vừa thừa vừa thiếu, do đào tạo số lượng lớn nhưng chưa bảo đảm chất lượng. Công tác thông tin, truyền thông, tạo đồng thuận trong xã hội nhằm thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia nhiều nơi chưa được coi trọng, mang tính hình thức, chiếu lệ...[5]. Vì vậy, trong thời gian tới Việt Nam cần tiến hành đồng bộ, toàn diện các giải pháp có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với từng ngành, từng lĩnh vực góp phần đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.

3. Một số giải pháp thúc đẩy chuyển đổi số tạo đột phá phát triển

Thứ nhất, tiếp tục nâng cao nhận thức về chuyển đổi số trong toàn xã hội, gắn đổi mới, sáng tạo khoa học, công nghệ với sự phát triển bền vững đất nước.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động trong toàn xã hội, trên các phương tiện thông tin đại chúng để các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân hiểu được ý nghĩa, tầm quan trọng và nội dung chuyển đổi số. Từ đó, đổi mới, có tư duy đột phá, tầm nhìn chiến lược rõ ràng, thực hiện có lộ trình, an toàn, bền vững, phù hợp với bối cảnh đất nước. Tiếp tục phát huy tính chủ động, sáng tạo, phát huy mọi nguồn lực thúc đẩy chuyển đổi số gắn liền với đổi mới, sáng tạo khoa học, công nghệ; đồng thời, giúp người dân bình đẳng về cơ hội tiếp cận dịch vụ, đào tạo, tri thức, thu hẹp khoảng cách số. Do đó, mỗi cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp cần nâng cao hiểu biết về chuyển đổi số, công nghệ số, kinh tế số và lợi ích của chuyển đổi số mạng lại để chuẩn bị sẵn sàng về tâm lý, điều kiện, kỹ năng cần thiết để thích ứng và sẵn sàng tham gia chuyển đổi số.

Thứ hai, hoàn thiện thể chế, chính sách pháp luật tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy chuyển đổi số.

Tập trung rà soát, nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung hệ thống văn bản quy định pháp luật về công nghệ thông tin, truyền thông, về doanh nghiệp, đầu tư, kinh doanh nhằm khuyến khích, huy động các nguồn lực xã hội tham gia vào các hoạt động nghiên cứu phát triển, ứng dụng công nghệ số vào sản xuất, kinh doanh, phát triển thương mại điện tử, thanh toán điện tử, quản lý thuế và các dịch vụ xuyên biên giới. Hoàn thiện chính sách, pháp luật bảo đảm an toàn, an ninh của các hoạt động kinh doanh trên mạng, bảo vệ bí mật thông tin doanh nghiệp, khách hàng; tăng cường cơ chế kiểm tra, giám sát, phân tích dữ liệu bảo đảm an ninh, an toàn cho hệ thống thông tin, phòng, chống tội phạm mạng. Xây dựng, thử nghiệm cơ chế, chính sách đặc thù để thúc đẩy quá trình chuyển đổi số, kinh tế số, phát triển các mô hình kinh tế mới, khởi nghiệp sáng tạo. Bên cạnh đó, cần chú trọng xây dựng chiến lược, kế hoạch chuyển đổi số, phát triển kinh tế số cho từng ngành, từng lĩnh vực, từng doanh nghiệp cụ thể.

Thứ ba, xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng, nền tảng số quốc gia đồng bộ.

Xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng, nền tảng số quốc gia đồng bộ, hiện đại, rộng khắp mọi miền đất nước nhằm đáp ứng yêu cầu kết nối an toàn, hiệu quả, không trùng lặp, lưu trữ, xử lý dữ liệu, thông tin, giám sát, bảo đảm an ninh, an toàn mạng. Trong đó, cần chú trọng xây dựng hệ thống định danh, xác thực điện tử quốc gia phục vụ cho giao dịch điện tử giữa người dân với các cơ quan nhà nước dễ dàng, đơn giản và thuận lợi hơn. Xây dựng, phát triển nền tảng số cho từng ngành, lĩnh vực cụ thể như: nông nghiệp thông minh, thương mại điện tử, đào tạo trực tuyến, năng lượng thông minh, khám, chữa bệnh từ xa. Xây dựng, phát triển hệ thống băng thông rộng khắp, nhất là ở các thành phố lớn, các khu công nghiệp, trung tâm văn hóa, giáo dục đào tạo. Nâng cấp mạng di động 4G, 5G, mở rộng kết nối internet khu vực và quốc tế. Xây dựng hệ thống hạ tầng thanh toán số quốc gia đồng bộ, thống nhất nhằm thúc đẩy việc thanh toán không sử dụng tiền mặt, kiểm soát, quản lý chặt chẽ các thanh toán trực tuyến. Đẩy mạnh thực hiện xã hội hóa, khuyến khích doanh nghiệp, người dân tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng số.

Thứ tư, thúc đẩy chuyển đổi số trong các doanh nghiệp, nâng cao tiềm lực khoa học công nghệ trong các ngành, lĩnh vực kinh tế.

Chuyển đổi số đồng nghĩa với chuyển đổi mô hình kinh doanh, chuyển đổi về con người, đòi hỏi các doanh nghiệp cần tạo ra một hệ sinh thái thống nhất. Phát huy vai trò của các doanh nghiệp công nghệ thông tin đã khẳng định được thương hiệu đi đầu trong nghiên cứu, phát triển, làm chủ công nghệ số; khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp trong các ngành, lĩnh vực truyền thống, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ chuyển đổi số, phát triển kinh tế số. Tạo môi trường thuận lợi, hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo về công nghệ số, ứng dụng công nghệ số để tạo ra các sản phẩm, dịch vụ mới trong các ngành, lĩnh vực kinh tế - xã hội. Hỗ trợ các doanh nghiệp chuyển từ gia công, lắp ráp sang thiết kế, chế tạo sản phẩm mới dựa trên những ứng dụng tiên tiến của khoa học công nghệ, làm chủ máy móc, làm chủ công nghệ trong sản xuất và quản lý.

Thứ năm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, năng lực đổi mới sáng tạo quốc gia.

Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực cao đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghệ 4.0 và hội nhập quốc tế. Ưu tiên phát triển đội ngũ chuyên gia, các nhà khoa học đầu ngành, chú trọng đội ngũ nhân lực kỹ thuật, nhân lực số, nhân lực quản trị công nghệ, quản lý, quản trị doanh nghiệp. Thường xuyên quan tâm công tác đào tạo, bồi dưỡng chất lượng nguồn nhân lực. Đẩy mạnh đổi mới nội dung, chương trình đào tạo theo hướng phát triển tư duy sáng tạo, thích ứng với môi trường khoa học công nghệ phát triển. Đổi mới cách dạy và học trên cơ sở ứng dụng công nghệ số, khuyến khích các mô hình đào tạo dựa trên nền tảng số. Có cơ chế khuyến khích tổ chức doanh nghiệp tham gia vào quá trình đào tạo về công nghệ số, phát triển và nâng cao nguồn nhân lực đáp ứng về chuyển đổi số, kinh tế số của đất nước. Quan tâm, hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng, đào tạo nghề cho người lao động chuyển đổi công việc trong quá trình chuyển đổi số.

Kết luận

Chuyển đổi số đã và đang tham gia tích cực trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần thay đổi mô hình sản xuất kinh doanh, thúc đẩy kinh tế phát triển. Do đó, với những giải pháp trên trong việc thúc đẩy chuyển đổi số tạo đột phá phát triển sẽ là bước đi quan trọng để thực hiện nền kinh tế số, xã hội số, mở ra cơ hội, thời cơ đối với Việt Nam. Đồng thời, cũng là “bệ phóng” giúp Việt Nam vươn xa kết nối với bên ngoài, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững, hoàn thành mục tiêu trở thành quốc gia phát triển có công nghệ hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030.

Tài liệu tham khảo:

[1] Châu Anh (2023), Thực hiện trực tuyến các thủ tục hành chính thiết yếu của ngành Giáo dục, https://dangcongsan.vn

[2] Ban Chấp hành Trung ương (2019), Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị Về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn

[3] Bộ Thông tin và Truyền thông (2022), Chuyển đổi số ngành y tế: Xu hướng công nghệ, https://www.mic.gov.vn

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[5] Mạnh Hùng (2023), Tạo đột phá hơn nữa trong công cuộc chuyển đổi số, https://dangcongsan.vn

[6] Tường Huy (2021), Thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số quốc gia, https://dangcongsan.vn

[7] Hiền Minh (2022), Hợp lực chuyển đổi số để phát triển kinh tế số, https://baochinhphu.vn

[8] Tường San (2023), Những con số ấn tượng về kết quả chuyển đổi số của ngành giáo dục, https://giaoduc.net.vn

[9] Thủ tướng Chính phủ (2020), Chỉ thị số 01/CT-TTg Về thúc đẩy phát triển doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn

[10] Thủ tướng Chính phủ (2020), Quyết định số 749/QĐ-TTg về Phê duyệt về Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn

[11] Phạm Tiếp (2022), Chuyển đổi số liên tục đổi mới với tư duy đột phá, tầm nhìn chiến lược, https://www.vietnamplus.vn

[12] Mạnh Tuyền (2023), Kết quả Chuyển đổi số quốc gia năm 2023, http://caicachhanhchinh.gov.vn

Đọc thêm

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng trong tác phẩm "Sửa đối lối làm việc" đối với rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên hiện nay

Tác giả: TRẦN THỊ THIỀU HOA - ĐẶNG MINH PHỤNG

(GDLL) - Giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên là vấn đề được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm trong quá trình xây dựng Đảng. Người thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải rèn luyện, trau dồi, giữ vững đạo đức cách mạng. Trên cơ sở truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, chắt lọc tinh hoa đạo đức nhân loại, Người phát triển và sáng tạo những giá trị đạo đức mới phù hợp với điều kiện Việt Nam. Bài viết tìm hiểu việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” đối với việc rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên hiện nay.

Bồi dưỡng, nâng cao năng lực, phẩm chất cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo, nhà báo ở Việt Nam hiện nay

Tác giả: Ngô Quang Trung

(GDLL) - Bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo, nhà báo đóng vai trò hết sức quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước hiện nay. Bài viết tập trung làm rõ những yêu cầu về năng lực, phẩm chất của cán bộ tuyên giáo, nhà báo trong bồi dưỡng nâng cao, quán triệt theo tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nhằm bồi dưỡng, nâng cao năng lực, phẩm chất cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo, nhà báo đáp ứng yêu cầu trong bối cảnh mới ở Việt Nam hiện nay.

Vận dụng sáng tạo hình thức đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng giai đoạn 1930-1945 vào thực tiễn ở Việt Nam hiện nay

Tác giả: BIỆN THỊ HOÀNG NGỌC

(GDLL) - Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam bằng nhiều phương thức phong phú, sáng tạo, hiệu quả. Bài viết trình bày sự sáng tạo, đa dạng hóa các hình thức đấu tranh phản bác các quan điểm chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng giai đoạn 1930-1945 và một số vấn đề cần vận dụng trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay.

Quan điểm Hồ Chí Minh về nâng cao trình độ dân trí cho nhân dân và sự vận dụng của Đảng trong thời kỳ đổi mới

Tác giả: NGUYỄN THỊ THU HUYỀN

(GDLL) - Trong bối cảnh một thế giới đang có nhiều đổi thay mạnh mẽ như hiện nay, việc nâng cao dân trí cho Nhân dân không chỉ là điều kiện để đem lại cuộc sống tốt đẹp cho mỗi người dân và xã hội mà hơn thế nữa, nó còn mang ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển bền vững và tiến bộ của đất nước. Vì vậy, bài viết tập trung phân tích một số quan điểm cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao trình độ dân trí cho Nhân dân, từ đó chỉ ra sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công cuộc đổi mới hiện nay.

Nhận diện và phản bác quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng về vấn đề "tự do tôn giáo"

Tác giả: NGUYỄN GIA HÙNG - KIM THỊ MỘNG NHI

(GDLL) - Không gian mạng có thể được hiểu là một không gian ảo, nơi con người có thể thực hiện các hành vi xã hội mà không bị giới hạn về không gian và thời gian. Đây là nơi dễ bị kẻ xấu, các thế lực thù địch sử dụng nhằm thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật, đặc biệt là lợi dụng về vấn đề “tự do tôn giáo”. Bài viết bước đầu nhận diện các quan điểm sai trái, thù địch lợi dụng vấn đề “tự do tôn giáo” trên không gian mạng. Trên có sở đó, bài viết đưa ra các luận cứ nhằm đấu tranh và phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng về vấn đề “tự do tôn giáo”.