
Tọa đàm khoa học: "Góp ý vào Báo cáo tổng kết Nội dung 3: Phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) qua 40 năm đổi mới ở
Việt Nam" Hội đồng Lý luận Trung ương phối hợp với Thành ủy Hà Nội tổ chức
Ảnh: TTXVN
Đặt vấn đề
Tư tưởng Hồ Chí Minh
về xây dựng và phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có
giá trị to lớn trong công cuộc xây dựng và kiến thiết đất nước. Trong công cuộc
Đổi mới do Đảng lãnh đạo, với việc chuyển đổi từ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập
trung quan liêu bao cấp sang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa đã đưa đến những thay đổi quan trọng của đất nước, đó là kết quả sự vận
dụng sáng tạo tư tưởng xây dựng và phát triển nền kinh tế của Người.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh
về kinh tế - cơ sở cho chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam
Bàn về kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa (XHCN) hiện nay trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh, cho thấy tư
tưởng của Người về kinh tế là một bộ phận hợp thành tư tưởng Hồ Chí Minh, là sự
vận dụng thế giới quan và phương pháp luận Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của
Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh từ hoạt động thực tiễn đã xây dựng,
hình thành, phát triển, tạo cho nền kinh tế Việt Nam một quan niệm mới, một
cách nhìn mới, một định hướng mới chưa từng có trong lịch sử kinh tế Việt Nam.
Thực tế, mô hình nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã hình thành manh nha,
bước đầu trong tư tưởng Hồ Chí Minh từ khi thành lập tổ chức
tiền thân của Đảng là Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên (1925). Trong Điều lệ của
tổ chức, Người khẳng định: Sau khi cách mạng thành công sẽ thành lập một chính
phủ Nhân dân và thực hành chính sách “Tân kinh tế”- chính là chính sách “Kinh tế
mới” của Lênin mà cốt lõi là chính sách nền kinh tế nhiều thành phần dưới sự
lãnh đạo của Đảng và điều hành của Nhà nước chuyên chính vô sản (Nhà nước
dân chủ).
Xuất phát từ điều kiện cụ thể của Việt
Nam, Hồ Chí Minh chỉ dẫn phải mềm dẻo, linh hoạt để vận dụng những vấn đề mang
tính nguyên tắc
một cách phù hợp, sáng tạo vào thực tiễn. Xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) từ
nước thuộc địa phong kiến, “Đặc điểm to nhất là từ một nước nông nghiệp lạc hậu
tiến thẳng lên CNXH không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”[9, tr.411].
Kế
thừa quan điểm lý luận của Lênin trong xây dựng kinh tế và xuất phát từ đặc điểm
của xã hội Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm sáng tạo, đổi mới cho phù
hợp với điều kiện đất nước, đó là xây dựng nền kinh tế với cơ cấu nhiều thành
phần với các hình thức sở hữu đa dạng.
Năm
1953, trong tác phẩm “Thường thức chính trị”, Hồ Chí Minh đã chỉ ra kinh tế nước
ta (ở vùng tự do), lúc đó có các thành phần kinh tế: Kinh tế địa chủ phong kiến
bóc lột địa tô; kinh tế quốc doanh có tính chất XHCN; các hợp tác xã tiêu thụ
và cung cấp, có tính chất nửa xã hội chủ nghĩa; kinh tế cá nhân của nông dân và
của thủ công nghiệp; kinh tế tư bản của tư nhân; kinh tế tư bản quốc gia là Nhà
nước hùn vốn với tư nhân để kinh doanh và do Nhà nước lãnh đạo[7, tr.266]. Cũng xuất
phát từ trình độ hiện tại thực có của lực lượng sản xuất và xã hội Việt Nam, Hồ
Chí Minh cũng chỉ rõ các loại hình sở hữu tương ứng, phù hợp: “Trong nước ta hiện
nay, có những hình thức sở hữu chính về tư liệu sản xuất như sau:
· Sở hữu nhà nước tức là sở hữu toàn dân
· Sở hữu của Hợp tác xã là sở hữu tập thể của
người lao động
· Sở hữu của người lao động riêng lẻ
· Một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà
tư bản”[7, tr.372]
Như
vậy, có thể khẳng định, ở Việt Nam, Hồ Chí
Minh là người lãnh đạo đầu tiên của Đảng,
của Nhà nước nêu lên một cách khá đầy đủ, toàn diện chủ trương sử dụng nền kinh
tế nhiều thành phần định hướng XHCN.
Chúng ta phải xây dựng nền tảng kinh tế kỹ thuật cho CNXH.
Đây là công việc “không thể một sớm một chiều”[8, tr.324] có thể hoàn thành. Thời kỳ quá độ ở Việt Nam sẽ phải trải qua nhiều bước, “bước ngắn, bước dài, tùy
theo hoàn cảnh'', nhưng: “chớ ham làm mau, ham rầm rộ. Đi bước nào vững vàng,
chắc chắn bước ấy, cứ tiến tới dần dần"[6, tr.539-540).
Người căn dặn, phải nêu cao tinh thần độc
lập, tự chủ, sáng tạo, chống giáo điều, rập khuôn kinh nghiệm nước ngoài. Thời
kỳ quá độ còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu: “sở hữu của Nhà nước tức
là của toàn dân, sở hữu của hợp tác xã tức là sở hữu tập thể của nhân dân lao động,
sở hữu của người lao động riêng lẻ, một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của
nhà tư bản”[9, tr.372).
Hồ Chí Minh cũng chỉ dẫn về nguyên tắc
vận hành nền kinh tế: Một là, công tư đều lợi; Hai là, chủ thợ đều lợi; Ba là, công nông giúp nhau; Bốn là, lưu thông trong - ngoài. Như vậy, Hồ
Chí Minh đã xác định lợi ích kinh tế là hạt nhân để xác định các loại kinh tế.
Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, việc giải quyết đúng đắn lợi
ích của các chủ thể kinh tế sẽ là động lực cho nền kinh tế hoạt động thực sự hiệu
quả và phát triển đúng hướng.Những
chỉ dẫn của Hồ Chí Minh là cơ sở cho việc lựa chọn và xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam vận
dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa
2.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Quan điểm về phát triển “kinh tế thị
trường định hướng XHCN” được xuất hiện lần đầu tiên trong Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng: “Thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN đó chính là nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN”[2, tr.86-87].
Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là: “Phát triển lực lượng sản
xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH nâng
cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây
dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối”[2, tr.85-86].
Đại hội X xác định rõ về hình thức sở hữu trong nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN: “Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế
nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền
kinh tế quốc dân”[3,
tr.77-78].
Đại hội XI tiếp tục khẳng định quan điểm
của Đại hội X về các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đồng thời nhấn mạnh đến việc tuân thủ pháp luật và
tính bình đẳng trước pháp luật của các thành phần kinh tế.
Đại hội XII của Đảng
tiếp tục được bổ sung những nhận thức mới về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, phù hợp với bối cảnh trong nước và quốc
tế: “Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế
thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát
triển của đất nước”[4,
tr.103]. Điểm nhấn mạnh coi đây là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng
bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường hướng tới thực hiện mục tiêu XHCN.
Đại hội XIII, Đảng đưa ra ba quan điểm thể hiện bước phát
triển trong tư duy lý luận của Đảng về phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam
Thứ nhất, làm rõ nội hàm của
kinh tế thị trường định hướng XHCN.
"Kinh tế thị trường định hướng XHCN
là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Đó là nền
kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo
các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN,
do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng XHCN vì mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" phù hợp với từng giai đoạn
phát triển của đất nước. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam có nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát
triển; kinh tế tư nhân là động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng
được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát
triển kinh tế xã hội"[11,
tr.26].
Đây là cơ sở để toàn Đảng, toàn dân
thống nhất về nhận thức và cách thức xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam.
Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường
định hướng XHCN tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn.
“Xây dựng khung khổ pháp luật, môi trường thuận lợi thúc đẩy phát
triển, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển kinh tế số; hỗ
trợ, khuyến khích sự ra đời, hoạt động của những lĩnh vực mới, mô hình kinh
doanh mới. Tập trung sửa đổi
những quy định mâu thuẫn, chồng chéo, cản trở phát triển kinh tế. Đẩy mạnh cải
cách thủ tục hành chính, phân cấp, phân quyền, uỷ quyền gắn với tăng cường
kỷ luật, kỷ cương, trách nhiệm cá nhân và nâng cao trách nhiệm phối hợp giữa
các cấp, các ngành”[5,
tr.132].
Thứ ba, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế
quốc tế.
“Giữ vững độc lập, tự chủ trong việc xác định chủ trương,
đường lối, chiến lược phát triển kinh tế đất nước. Phát triển doanh nghiệp Việt
Nam lớn mạnh trở thành nòng cốt của kinh tế đất nước; giữ vững các cân đối lớn,
chú trọng bảo đảm an ninh kinh tế; không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế quốc
gia. Đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một
thị trường, một đối tác... Hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với những Điều
ước quốc tế và cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết”[5, tr.135-136].
2.2. Những nội dung trong quan điểm
của Đảng về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Đại hội
XIII - kết quả sự vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn
Chủ trương phát triển kinh tế thị trường
định hướng XHCN thể hiện sự vận dụng
và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh ở những nội dung sau:
Một là, quan điểm của Đảng về phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN thể hiện
sự trung thành với tư tưởng Hồ Chí Minh. Nội dung cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh, khát vọng cháy bỏng của Hồ Chí
Minh là làm cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng
bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Phát triển kinh tế thị
trường với các cơ chế chính sách phù hợp là cơ sở để phát huy nội lực dân tộc
và tranh thủ những yếu tố thuận lợi từ bên ngoài. Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định
dân có giàu thì nước mới mạnh. Phát triển kinh tế thị trường chính là tạo môi
trường thuận lợi để người dân vươn lên làm
giàu chính đáng. Giữ vững định hướng XHCN trong xây dựng kinh tế thị trường chính là phòng
tránh hữu hiệu nguy cơ chệch hướng XHCN trong quá trình phát triển. Vì vậy, xây
dựng kinh tế thị trường định hướng XHCN
là sự tiếp tục thực hiện nội dung cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh về kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH.
Hai là, quan điểm phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN của Đảng thể hiện sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
nguyên tắc xác định bước đi trong xây dựng CNXH ở Việt Nam.
Để xác định bước đi và tìm cách thức
xây dựng CNXH phù hợp với điều kiện của Việt Nam, Hồ Chí Minh đưa ra hai nguyên tắc có tính
phương pháp luận:
Đầu tiên, xây dựng CNXH là một hiện
tượng phổ biến, cần quán triệt các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin;
đồng thời có thể tham khảo kinh nghiệm của các nước trong quá trình xây dựng.
Tuy nhiên phải tránh việc rập khuôn, giáo điều, máy móc trong vận dụng lý luận
và tiếp thu kinh nghiệm.
Tiếp theo, xác định bước đi và biện pháp xây dựng CNXH phải
xuất phát từ điều kiện thực tế của dân tộc.
Để xây dựng CNXH, cần có nền tảng cơ sở vật chất của
CNXH. Xây dựng kinh tế thị trường chính là chuẩn bị về cơ sở vật chất để thực
hiện các mục tiêu của CNXH. Các nội dung về kinh tế thị trường định hướng XHCN
được Đảng đưa ra trong Văn kiện là kết quả của quá trình vận dụng lý luận, quá
trình học tập kinh nghiệm từ các nước có chung lựa chọn về mô hình kinh tế và từ
thực tiễn phát triển của đất nước.
Ba là, thể hiện sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế với các nội dung về thành phần
kinh tế và vai trò của các thành phần kinh tế; về vai trò của nông nghiệp và
công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn; về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ;
về phát huy sức mạnh của khoa học kỹ thuật trong phát triển kinh tế
Bốn là, thể hiện bổ sung phát
triển tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế, thể hiện ở các nội dung sau:
i) Vận dụng những chỉ dẫn của Hồ Chí Minh vào thực tiễn,
trải qua gần bốn thập kỷ thực hiện công cuộc Đổi mới, Đảng ta đã thống nhất và
nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế thị
trường định hướng XHCN. Hồ Chí Minh mới đưa ra những chỉ dẫn về các
thành phần kinh tế và nguyên tắc vận hành nền kinh tế trong thời kỳ quá độ. Đại
hội XIII cũng làm rõ vấn đề định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường; làm
rõ vị trí, vai trò của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN.
ii) Nhấn mạnh việc tiếp tục hoàn thiện thể chế, phát triển đầy đủ, đồng bộ
các yếu tố thị trường, các loại thị trường. Đây là vấn đề mà lúc sinh thời, Hồ
Chí Minh chưa có điều kiện đưa ra những chỉ dẫn cụ thể.
iii) Phát triển quan điểm của Hồ Chí
Minh về xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ kết hợp với tận dụng sự giúp đỡ, ủng
hộ của các nước trên thế giới để phát triển kinh tế nước nhà. Những chỉ dẫn của
Hồ Chí Minh về xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ kết hợp với tận dụng sự
giúp đỡ của các nước trên thế giới đã được Đảng ta tiếp thu và nâng lên một tầm
cao mới với chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế quốc tế,
tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác.
3. Kết quả sự vận dụng và
phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế của Đảng trong xây dựng kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Từ kết quả đường lối Đổi mới đúng đắn của Đảng, trên cơ sở
tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hình thành và ngày
càng hoàn thiện đường lối Đổi mới và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN tiếp tục phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới và đáp ứng đòi hỏi
thực tiễn Việt Nam.
Kinh tế - xã hội ngày càng phát triển, đời sống vật chất
và đời sống tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng cao. Nền kinh tế Việt
Nam đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận, Việt Nam tiếp tục là một điểm sáng
trong khu vực và toàn cầu, tiếp tục được các tổ chức thế giới và các quốc gia đối
tác đánh giá cao, xếp thứ 8 trong số các nền kinh tế tốt nhất thế giới để đầu
tư năm 2019, tăng 18 bậc so với 2018. Năng lực
cạnh tranh của Việt Nam vượt bậc trên cả ba trụ cột thể chế, hạ tầng cơ
sở và kỹ năng (Đánh giá của diễn đàn kinh tế thế giới WEF, xếp thứ 64/141 quốc
gia và vùng lãnh thổ; tăng 10 bậc so với 2018. Sản xuất nông nghiệp tăng mạnh,
xuất khẩu nông, lâm thủy sản đạt 41 tỉ USD, xây dựng nông thôn mới đạt kết quả
vượt bậc...)[1]
Quốc
phòng, an ninh được giữ vững; quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu
rộng, vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam ngày càng được nâng cao. Tiềm lực quốc phòng và an ninh được tăng cường; thế trận
lòng dân được chú trọng; thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân
dân, nhất là trên các địa bàn chiến lược, trọng điểm được củng cố vững chắc.
Quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế đạt được nhiều thành tựu
quan trọng. Đến năm 2020, Việt Nam có 30 đối tác chiến lược và đối tác chiến lược
toàn diện; có quan hệ ngoại giao với 193 nước, có quan hệ kinh tế với 160 nước
và 70 vùng lãnh thổ;. Đảng Cộng sản Việt Nam thiết lập quan hệ đối
ngoại Đảng với 254 chính đảng ở 114 quốc gia[10, tr.203]. Vị thế của Việt Nam trên trường
quốc tế không ngừng được khẳng định và nâng cao. Việt Nam được tín nhiệm bầu
vào nhiều vị trí, trọng trách quốc tế quan trọng, nhất là trong ASEAN và Liên Hợp
Quốc như Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an, Phó Chủ tịch Đại hội đồng
Liên Hợp Quốc khóa 77, thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc
nhiệm kỳ 2023-2025, Ủy ban Di sản thế giới, Ủy ban Luật pháp quốc tế.
Kết luận
Chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN
của Đảng trong thời kỳ Đổi mới là kết quả sự vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí
Minh vào thực tiễn. Sự vận dụng này, một mặt khẳng định nhận thức của Đảng ta về giá trị của
tư tưởng Hồ Chí Minh, là biểu hiện của sự trung thành của Đảng đối với chủ
nghĩa Mác Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mặt khác là cơ sở giúp Đảng ta đề ra đường
lối Đổi
mới đất nước phù hợp, từng bước nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế,
tiếp tục tạo ra những vận hội mới cho dân tộc.
Tài
liệu tham khảo:
[1] Báo
cáo của Thủ tướng Chính phủ tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIV, ngày
21/10/2019. https//vpcp.cp.vn
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb.
Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb.
Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam
(2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I,Nxb.
Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
[6] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập,
tập 7. Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
[7] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập,
tập 8. Nxb. Chính trị
quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
[8] Hồ Chí Minh
(2011), Toàn tập, tập 10. Nxb. Chính trị quốc gia - Sự
thật, Hà Nội.
[9] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12. Nxb. Chính trị quốc gia - Sự
thật, Hà Nội.
[10] Hội đồng Lý luận Trung ương
(2020), 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Chính trị
quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
[11] Nguyễn Phú Trọng (2022), Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc giaSự thật, Hà Nội.