Thứ Năm, ngày 23/01/2025, 16:38

Xu hướng trí thức hóa giai cấp công nhân Việt Nam - những yếu tố tác động và một số giải pháp đề xuất

Phạm Phương Lan
Trường Đại học Công đoàn.

(GDLL) Xu hướng trí thức hóa công nhân là một xu hướng tất yếu hiện nay. Bài viết làm rõ nội hàm khái niệm trí thức hóa giai cấp công nhân, đặc điểm riêng và chỉ ra một số yếu tố tác động đến xu hướng trí thức hóa giai cấp công nhân Việt Nam; từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển xu hướng này trong thời gian tới.

Giai cấp công nhân Việt Nam đổi mới, sáng tạo, đóng góp vào sự nghiệp CNH, HĐH đất nước (ảnh news.vnanet.vn)

Đặt vấn đề

Biến đổi ở giai cấp công nhân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là một xu hướng tất yếu. Sự biến đổi ở giai cấp công nhân diễn ra trên nhiều phương diện: số lượng, chất lượng (trình độ, ý thức kỷ luật lao động, ý thức chính trị...), nghề nghiệp, việc làm, thu nhập và mức sống, chất lượng sống, thành phần kinh tế... có cả mặt tích cực và tiêu cực. Trí thức hóa hay trí tuệ hóa công nhân là một xu hướng biểu hiện của sự biến đổi tích cực về chất lượng giai cấp công nhân hiện nay. Có nhiều yếu tố tác động tạo nên xu hướng biến đổi này ở giai cấp công nhân, bao gồm cả yếu tố chủ quan và khách quan. Việc nghiên cứu xu hướng trí thức hóa ở giai cấp công nhân và những yếu tố tác động đến xu hướng này có ý nghĩa thiết thực trong xây dựng chính sách phù hợp nhằm xây dựng và phát triển toàn diện giai cấp công nhân trong giai đoạn hiện nay.

1. Xu hướng trí thức hóa giai cấp công nhân ở Việt Nam

Sau gần 40 năm đổi mới, trong đó có hơn 15 năm thực hiện Nghị quyết 20-NQ/TW về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, 04 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, công tác xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam hiện đại, lớn mạnh đạt được những kết quả quan trọng: có sự phát triển mạnh mẽ về số lượng, chất lượng, bước đầu hình thành đội ngũ công nhân trí thức, có tay nghề, kỹ năng cao, đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Cho đến nay, công nhân nước ta đã có hơn 15 triệu người, chiếm khoảng 15% dân số, 29% lực lượng lao động xã hội, tạo ra gần 70% giá trị tổng sản phẩm xã hội. Bên cạnh những kết quả đạt được, việc xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam vẫn còn một số hạn chế về số lượng, chất lượng; một bộ phận công nhân nước ta sự hiểu biết về chính sách, pháp luật còn hạn chế, thờ ơ trước các sự kiện chính trị - xã hội, vận mệnh của dân tộc; việc đào tạo, bồi dưỡng công nhân còn chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường...[5].

Ngay từ khi chịu tác động của cuộc Cách mạng khoa học - kỹ thuật lần thứ nhất (cách mạng 1.0) thì trí thức hóa đã diễn ra ở giai cấp công nhân nhưng chưa biểu hiện rõ thành xu hướng nổi bật. Ngày nay, trước tốc độ phát triển như vũ bão của khoa học - kỹ thuật, nhất là trước tác động của cuộc cách mạng 4.0 đã cho thấy tri thức và công nghệ đã tạo ra sự chuyển dịch trong cơ cấu kinh tế; đồng thời thúc đẩy không ngừng xu hướng trí thức hóa công nhân.

Trí thức hóa công nhân không có nghĩa là biến công nhân thành trí thức và ngược lại, mà được hiểu là xu hướng nâng cao trình độ tri thức khoa học, đặc biệt là tri thức khoa học chuyên ngành, nhằm giúp nâng cao trình độ tay nghề, năng suất lao động cho giai cấp công nhân. Xu hướng trí thức hóa công nhân đã làm xuất hiện những thuật ngữ mới dùng để chỉ giai cấp công nhân như: “công nhân tri thức”, “công nhân - trí thức”, “trí thức - công nhân” hoặc “nông dân - công nhân”, công nhân cổ cồn trắng, cổ cồn xanh, cổ cồn vàng, cổ cồn nâu...[3].

Xu hướng trí thức hóa công nhân diễn ra mạnh hơn ở các nước phát triển, có quốc gia số lượng công nhân trí thức đang là 71%[2]. Đi cùng với đó thì công nhân trí thức sẽ có năng suất lao động cao hơn, được trả giá trị sức lao động cao hơn và xu hướng trung lưu hóa cũng diễn ra nhanh hơn ở các nước phát triển so với các nước đang phát triển. “Hiện có 408 triệu công nhân trong các nước phát triển và số còn lại (khoảng hơn 1.100 triệu) là ở các nước đang phát triển... Năm 2017, ILO xếp hạng năng suất lao động thông qua so sánh việc tạo ra giá trị mới của một lao động/năm ở một số nước phát triển: công nhân Mỹ tạo ra 63.885USD/người/năm; công nhân Ai-len là 55.986USD/ người/ năm; công nhân Bỉ là 55.235USD/ người/ năm; công nhân Pháp là 54.609USD/ người/ năm...”(3).

Ở Việt Nam, xu hướng trí thức hóa công nhân có một số đặc điểm là:

Ở các doanh nghiệp FDI sẽ diễn ra nhanh hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác, bởi vì doanh nghiệp FDI đầu tư khoa học - công nghệ hiện đại hơn.

Diễn ra ở đội ngũ công nhân trẻ nhanh hơn vì họ là lực lượng tiếp cận nhanh với khoa học - công nghệ mới.

Diễn ra ở đội ngũ công nhân nam nhanh hơn so với đội ngũ công nhân nữ vì công nhân kỹ thuật chủ yếu là nam giới.

Sẽ phụ thuộc vào xu hướng biến đổi của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

2. Những yếu tố tác động đến xu hướng trí thức hóa giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay

Thứ nhất, quá trình toàn cầu hóa

Quá trình toàn cầu hóa đã tạo sức cạnh tranh lớn hơn, không chỉ cạnh tranh trong nội bộ giai cấp công nhân Việt Nam mà còn giữa công nhân Việt Nam với công nhân ở các quốc gia khác. Điều này tạo động lực buộc giai cấp công nhân Việt Nam phải không ngừng nâng cao trình độ khoa học - công nghệ, trình độ chuyên môn, tay nghề để tăng sức cạnh tranh trên thị trường lao động và việc làm.

Thứ hai, xu hướng hội nhập quốc tế

Bước sang thế kỷ XXI, sự gia tăng xu thế toàn cầu hóa đã tạo điều kiện và thúc đẩy sự hình thành các hiệp định thương mại đa phương thế hệ mới (FTA thế hệ mới). Từ năm 2016 đến nay, Việt Nam tích cực tham gia vào các FTA thế hệ mới, trong đó đáng chú ý là hiệp định EVFTA và CPTPP. Việc tham gia các FTA thế hệ mới đã mở rộng thị trường, tạo nhiều ngành, nghề, lĩnh vực hoạt động mới; do đó đã tạo nhiều việc làm và việc làm mới cho công nhân. Đồng thời, các FTA thế hệ mới cũng đặt ra yêu cầu cao hơn, chặt chẽ hơn về tiêu chuẩn đối với thương mại hàng hóa và dịch vụ... về môi trường, phát triển bền vững mà công nhân tạo ra và tiêu chuẩn lao động. Do đó, các FTA thế hệ mới có tác động rất lớn đến giai cấp công nhân, đòi hỏi công nhân phải nắm vững những quy định mới mà các FTA truyền thống chưa đề cập đến; phải cập nhật những tri thức khoa học - công nghệ mới để ứng dụng vào sản xuất, tạo ra sản phẩm đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế và có sức cạnh tranh cao trên thị trường lớn hơn.

Thứ ba, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

Công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước sẽ tiếp tục thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế với tốc độ nhanh hơn, quy mô lớn hơn và tính chất phức tạp hơn trên tất cả các phương diện dẫn đến sự xuất hiện đội ngũ công nhân làm việc ở những ngành nghề mới như: dầu khí, tin học, điện tử, viễn thông, chế tạo vật liệu mới... Đồng thời cũng làm tăng nhanh đội ngũ công nhân ở nhiều ngành dịch vụ công nghiệp như: ngành tài chính, ngân hàng, bưu chính viễn thông, du lịch, chuyển giao kỹ thuật, đầu ra cho các sản phẩm... Đây là những ngành nghề đòi hỏi giai cấp công nhân nước ta phải không ngừng nâng cao trình độ văn hoá, chuyên môn, tay nghề, ngoại ngữ, khả năng tiếp thu nhanh những tri thức tiên tiến, những công nghệ sản xuất hiện đại, có ý thức và tinh thần trách nhiệm cao đối với công việc, tác phong công nghiệp và kỹ năng nghề nghiệp. Để thực hiện được mục tiêu này, Việt Nam cần phải đi tắt đón đầu bằng khoa học - công nghệ và chuyển đổi số.

Nhiều công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng: hiện nay số lượng công nhân có trình độ cao đẳng, đại học, sau đại học tăng lên đáng kể ở các ngành nghề và các thành phần kinh tế. “Đến năm 2023, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 27,2%, trong đó trình độ cao đẳng, đại học trở lên chiếm khoảng 17%, chủ yếu làm việc trong các lĩnh vực công nghệ cao, như dầu khí, điện lực, điện tử viễn thông, công nghệ thông tin, tự động hóa, công nghệ hóa học, sinh học...” (5).

Thứ tư, sự tác động của cuộc Cách mạng khoa học - kỹ thuật lần thứ tư

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Cách mạng 4.0) tập trung vào công nghệ kỹ thuật số đã cho phép chuyển đổi sang nền kinh tế kỹ thuật số; cung cấp cơ hội, khả năng cạnh tranh gần như vô hạn để đạt được tăng trưởng kinh tế bền vững. Điều này mang lại nhiều cơ hội cho giai cấp công nhân như: tạo nhiều việc làm mới, đa dạng và chất lượng cao trong các lĩnh vực liên quan đến công nghệ số (lập trình, thiết kế, phân tích, quản lý, tư vấn...); tận dụng các nền tảng số để học hỏi, giao lưu, hợp tác trong và ngoài nước. Tuy nhiên, chuyển đổi số sẽ làm giảm hoặc biến mất một số công việc truyền thống, loại bỏ dần công nhân có trình độ thấp, hạn chế trong tiếp cận công nghệ mới ra khỏi guồng máy công nghiệp, gây áp lực về mặt tâm lý và sức khỏe cho người lao động. Điều này đòi hỏi giai cấp công nhân Việt Nam phải thay đổi phương thức làm việc, nắm bắt cơ hội, phải liên tục cập nhật kiến thức, kỹ năng và sáng tạo để ứng dụng các công nghệ số vào công việc hiệu quả.

3. Một số giải pháp đề xuất nhằm thúc đẩy xu hướng trí thức hóa công nhân ở Việt Nam trong thời gian tới

3.1. Giải pháp từ phía công nhân

Giai cấp công nhân phải tự ý thức được trách nhiệm và sự cần thiết của bản thân trong việc vươn lên làm chủ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới, là quá trình tự thân vận động.

Trong điều kiện của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đòi hỏi người công nhân phải biết thay đổi và biết thích nghi nhanh hơn. Chính vì vậy, để đẩy nhanh tốc độ trí thức hóa thì trước tiên giai cấp công nhân phải tự nâng cao trình độ tri thức khoa học công nghệ cho bản thân.

Muốn vậy, giai cấp công nhân Việt Nam cần tích cực, chủ động trong việc tự đào tạo, bồi dưỡng bằng việc chủ động tiếp cận, học hỏi các chuyên gia và những công nhân có chuyên môn giỏi để nắm bắt những công nghệ mới, cập nhật và nâng cao sự hiểu biết những tri thức khoa học tiên tiến, tay nghề.

Đồng thời, công nhân cần chủ động tự học tập nâng cao trình độ ngoại ngữ, tin học, chuyển đổi số, kỹ năng mềm, hiểu biết về chế độ, quy định, chính sách mới về quyền và trách nhiệm bản thân khi Việt Nam tham gia các FTA thế hệ mới, làm chủ tri thức khoa học nhằm thích ứng tốt với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

3.2. Giải pháp từ góc độ nhà quản lý, lãnh đạo

Cần cải cách triệt để hệ thống giáo dục và đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ và tay nghề cho giai cấp công nhân 

Cụ thể:

Cần phải bắt đầu từ sự thay đổi mạnh mẽ trong hệ thống giáo dục phổ thông và đào tạo nghề, làm cơ sở cho việc đào tạo bậc đại học chuyên ngành và lao động chất lượng cao theo yêu cầu hiện đại phù hợp với những đòi hỏi của nền kinh tế tri thức: không chỉ nắm vững công nghệ đã có hay đã chín muồi mà còn phải làm chủ công nghệ mới, phải biết sáng tạo ra công nghệ mới, đề xuất cái mới. Vì vậy ngay từ cấp học phổ thông cần phải chuẩn bị cho học sinh trở thành những người lao động sáng tạo bằng cách tăng thời gian thực nghiệm, gắn lý thuyết với thực hành; các cơ sở đào tạo nghề phải cập nhật những công nghệ mới nhất, hiện đại nhất đưa vào giảng dạy, có hệ thống trung tâm thực nghiệm, đưa học sinh đi thăm quan và trao đổi tại các trung tâm công nghệ cao, khu thực nghiệm công nghệ cao.

Quy hoạch lại các trường dạy nghề, đào tạo công nhân theo chiến lược kinh tế - xã hội và cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý mới.

Kế hoạch hoá dạy nghề một cách tổng hợp, đồng bộ nhằm thực hiện sự cân đối trong nội bộ hệ thống giáo dục cũng như giữa hệ thống đào tạo và hệ thống kinh tế, giữa đào tạo và sử dụng. Coi trọng và quan tâm hơn nữa đầu tư xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho các trường dạy nghề, chăm lo đời sống của cán bộ, giáo viên và học sinh trong các trường dạy nghề.

Đổi mới chương trình, cải cách nội dung, phương pháp đào tạo và hiện đại hoá công tác đào tạo của các trường nghề và các trung tâm dạy nghề theo hướng công nhân giỏi một nghề, biết thêm một vài nghề khác, lý luận gắn với thực hành, tạo điều kiện để học sinh làm quen với sản xuất công nghiệp, với đời sống công nhân, với các lĩnh vực kinh tế - xã hội của đất nước.

Có chính sách khuyến khích, thu hút để tuyển chọn được một bộ phận thanh niên ưu tú, học sinh giỏi từ các trường phổ thông vào các trường dạy nghề. Chỉ có như vậy, trong tương lai chúng ta mới có một đội ngũ công nhân giỏi; từ đó tuyển chọn và đào tạo được những cán bộ quản lý, lãnh đạo giỏi xuất thân từ công nhân.

3.3. Giải pháp từ phía xã hội

Một là, nâng cao trách nhiệm xã hội trong việc đào tạo, bồi dưỡng công nhân

Cần ban hành hệ thống chính sách nhằm huy động các cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp thuộc tất cả các thành phần kinh tế, các ngành, các địa phương đều phải có nghĩa vụ và trách nhiệm đầu tư vào công tác đào tạo và bồi dưỡng công nhân - khâu quan trọng nhất của quá trình tái sản xuất; phải dành ngân sách và đóng góp vào quỹ dạy nghề, đào tạo công nhân; tổ chức tốt việc bổ túc văn hoá và đào tạo nghề trong phạm vi doanh nghiệp, công ty, cơ sở sản xuất... Đây chính là thực hiện xã hội hoá công tác đào tạo, nâng cao trình độ học vấn và tay nghề cho công nhân, trí thức hoá đội ngũ công nhân.

Hai là, không chỉ chăm lo, đầu tư về ngân sách mà cần có sự kết nối chặt chẽ, thường xuyên giữa cơ sở sản xuất, doanh nghiệp với các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nhằm gắn lý luận với thực tiễn, gắn đào tạo với thực tiễn yêu cầu sử dụng công nhân và người lao động của xã hội.

3.4. Giải pháp từ phía doanh nghiệp

Một là, doanh nghiệp cần đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ xuất thân từ công nhân để có thực tiễn trong công tác lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp; đồng thời có đóng góp vào quan điểm và chính sách trí tuệ hóa giai cấp công nhân Việt Nam của Đảng, Nhà nước.

Đội ngũ cán bộ xuất thân từ công nhân sẽ là những người am hiểu thực tiễn một cách sâu sắc. Họ thấu hiểu những bất cập, những khó khăn, thách thức và cả thời cơ đối với giai cấp công nhân Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, bối cảnh của thời đại; từ đó có những ý kiến đóng góp vào quan điểm và chính sách trí tuệ hóa giai cấp công nhân Việt Nam của Đảng, Nhà nước ta một cách sát với thực tiễn, mang tính khả thi.

Hai là, doanh nghiệp phải coi trọng việc đào tạo và đào tạo lại nhằm nâng cao trình độ, năng lực trí tuệ, tay nghề, chuyên môn, nghiệp vụ, văn hoá, kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp cho công nhân.

Việc đào tạo và đào tạo lại cho công nhân nhằm giúp họ nhanh chóng có điều kiện tiếp thu, làm chủ công nghệ mới, có cơ hội tìm được việc làm, để nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất kinh doanh, đủ sức cạnh tranh với thị trường trong và ngoài nước. Đầu tư vào công tác đào tạo công nhân là một hướng đầu tư vào chiều sâu cơ bản và có hiệu quả nhất, cả về kinh tế, xã hội, chính trị của doanh nghiệp. Yêu cầu của nền sản xuất hiện đại đòi hỏi doanh nghiệp phải có một đội ngũ công nhân vững vàng cả về lý thuyết lẫn tay nghề, nắm vững công nghệ hiện đại.

Kết luận

Trí tuệ hóa giai cấp công nhân làm hình thành đội ngũ công nhân trí thức, làm gia tăng chất lượng và cơ hội cho giai cấp công nhân Việt Nam. Xu hướng này ngày càng phát triển trong thời gian tới. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về xu hướng này chưa thực sự phong phú, đa dạng. Việc tiếp tục nghiên cứu xu hướng này để có những định hướng và chính sách phù hợp, thiết thực nhằm xây dựng, phát triển giai cấp công nhân Việt Nam hiện đại trong thời gian tới là yêu cầu cấp bách và lâu dài của công tác lý luận hiện nay.

 

Tài liệu tham khảo:

[1] Nguyễn Việt Dũng, Xu hướng vận động, phát triển và một số giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam đáp ứng yêu cầu hiện nay, https://www.tapchicongsan.org.vn

[2] Nguyễn An Ninh, Những nhận thức mới về giai cấp công nhân hiện nay.

https://www.tapchicongsan.org.vn

[3] Nguyễn Viết Thảo, PGS.TS. Nguyễn An Ninh, Năm xu hướng biến động của giai cấp công nhân trên thế giới hiện nay, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. https://hdll.vn

[4] Ngân hàng Thế giới, Báo cáo phát triển nhân lực năm 2002.

[5] Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam hiện đại, https://www.tapchicongsan.org.vn

Đọc thêm

Hoàn thiện thể chế về kinh tế số ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Tác giả: NGUYỄN THỊ THÙY DUNG

(GDLL) - Hoàn thiện thể chế về kinh tế số là một nội dung rất cấp thiết nhằm thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia và phát triển kinh tế số ở Việt Nam. Trên cơ sở khái quát khung lý thuyết thể chế về kinh tế số, bài viết phân tích thực trạng nội dung này ở Việt Nam thời gian qua, đồng thời chỉ ra những hạn chế còn tồn tại, từ đó đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện thể chế về kinh tế số ở Việt Nam trong thời gian tới.

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật ở tỉnh Nam Định

Tác giả: NGUYỄN ĐÌNH QUỲNH - TRẦN HOÀI THU

(GDLL) - Việc xây dựng xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật có tác động trực tiếp đến hoạt động của chính quyền các cấp, nhất là cấp xã, nắm rõ được điều đó, cấp ủy đảng, chính quyền trên địa bàn tỉnh Nam Định quan tâm, chỉ đạo, tổ chức và triển khai hiệu quả. Bài viết trình bày nội dung, thành tựu và hạn chế của việc xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật ở tỉnh Nam Định từ đó đưa ra một số giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác này trong giai đoạn hiện nay.

Phát triển du lịch cộng đồng trên cơ sở văn hóa tộc người nhằm tạo sinh kế bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc

Tác giả: TRỊNH VƯƠNG CƯỜNG

(GDLL) - Với lợi thế có nhiều phong cảnh thiên nhiên tươi đẹp, môi trường sinh thái trong lành và sự phong phú, đa dạng, độc đáo của bản sắc văn hóa các tộc người, Tây Bắc đã xây dựng và đưa vào khai thác nhiều làng, bản du lịch cộng đồng thu hút được nhiều du khách, đem lại sinh kế, góp phần xóa đói, giảm nghèo, nâng cao thu nhập cho người dân địa phương. Tuy nhiên, du lịch cộng đồng ở Tây Bắc vẫn còn nhiều hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng. Bài viết phân tích tiềm năng văn hóa tộc người và thực trạng phát triển du lịch cộng đồng ở Tây Bắc, từ đó, kiến nghị một số giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển du lịch cộng đồng nhằm mang lại sinh kế bền vững cho đồng bào các tộc người nơi đây.

Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 với vấn đề xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc hiện nay

Tác giả: GIANG THỊ HUYỀN

(GDLL) - Ra đời năm 1943, bản Đề cương về văn hóa Việt Nam do đồng chí Trường Chinh khởi thảo và công bố được coi là bản tuyên ngôn, cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa. Trong suốt 80 năm qua, Đề cương như ngọn đuốc soi đường cho sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam. Nhiều tư tưởng trong bản Đề cương đến nay còn nguyên giá trị, định hướng cho sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước trong giai đoạn mới.

Phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong tái cơ cấu ngành nông nghiệp tại huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang

Tác giả: VƯƠNG HỒNG HÀ - NGUYỄN HÙNG LINH NGA

(GDLL) - Trong thời gian qua, quá trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Cùng với chính quyền địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội của huyện đã phát huy vai trò phối hợp trong tổ chức triển khai các nhiệm vụ, giải pháp nhằm thực hiện hiệu quả công cuộc tái cơ cấu ngành nông nghiệp cũng như tái cơ cấu kinh tế toàn huyện.