
Lá cờ quyết chiến quyết thắng tung bay trên nóc hầm
Sở chỉ huy của Tướng Đờ Cátơri ngày 7-5-1954_Ảnh tư liệu
1. Chiến thắng Điện Biên Phủ -
Thắng lợi của khát vọng hòa bình, độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân
dân
Nói đến “khát vọng”, “ý chí quyết tâm” là nói
đến yếu tố tinh thần, là sự mong muốn, khao khát, quyết tâm dồn hết sức lực,
trí tuệ, sự chủ động, sáng tạo để đạt được mục tiêu đề ra; là nguồn động lực có
sức mạnh to lớn để mỗi người thực hiện thành công những nhiệm vụ quan trọng nhằm
đạt được ước mơ, hoài bão của mình; không khuất phục trước mọi khó khăn, thử
thách. Với ý nghĩa đó, suy rộng ra trên bình diện quốc gia, dân tộc, đó là ý
chí, bản lĩnh quyết tâm, quyết chí đấu tranh vì hòa bình, độc lập của dân tộc;
là sự chủ động, sáng tạo trong lãnh đạo đường lối đấu tranh của chính đảng cầm
quyền; là động lực để huy động mọi tầng lớp nhân dân phát huy cao nhất sức mình
nhằm hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước trong từng giai đoạn, từng thời
điểm lịch sử cụ thể.
Việt Nam, ở thời điểm đầu năm 1954, trước yêu
cầu đặt ra là “phải đánh cho thắng”, đã thấy một khát vọng Việt Nam trỗi dậy mạnh
mẽ và được biểu hiện trên nhiều khía cạnh.
Thứ nhất, Điện
Biên Phủ - nơi thể hiện ý chí, bản lĩnh quyết tâm, quyết chí đấu tranh vì khát
vọng hòa bình, độc lập của dân tộc
Mùa Hè năm 1953, thực dân Pháp triển khai Kế
hoạch Nava. Ngày 20-11-1953, Pháp đã điều 6 tiểu đoàn nhảy dù chiếm đóng Điện
Biên Phủ và quyết định tập trung lực lượng xây dựng ở đây tập đoàn cứ điểm mạnh
nhất Đông Dương hòng tiêu diệt quân chủ lực của Việt Nam, giành thắng lợi quân
sự lớn để kết thúc chiến tranh. Ngày 25-11-1953, theo lệnh của Nava, 6 tiểu
đoàn đánh chiếm Mường Ngòi, Mường Khoa, xây dựng phòng tuyến sông Nậm U để nối
liền Thượng Lào với Điện Biên Phủ. Ngày 30-11-1953, Đại tá Đờ Cátxtơri được bổ
nhiệm Chỉ huy quân đồn trú ở Điện Biên Phủ.
Đến đầu tháng 12-1953, lực lượng phòng giữ Điện
Biên Phủ của Pháp đã tăng từ 6 tiểu đoàn lên 9 tiểu đoàn bộ binh và 3 tiểu đoàn
pháo, được bố trí thành 49 cứ điểm, 8 cụm, chia làm 3 phân khu (Phân khu Bắc,
Phân khu Trung tâm, Phân khu Nam). Mỗi cụm có hệ thống hỏa lực nhiều tầng, hệ
thống hầm ngầm che chắn ngang dọc, sở chỉ huy, bao bọc bởi thép gai dày 50m đến
200m với vô số các loại mìn. Hai sân bay Mường Thanh và Hồng Cúm với phi đội 12
chiếc máy bay bảo đảm sự chi viện bằng đường hàng không. Thêm vào đó là sự yểm
trợ của Mỹ ở các sân bay Gia Lâm, Cát Bi.
Chứng kiến sự đồ sộ và vô cùng kiên cố của tập
đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, từ Thủ tướng Pháp Lanien đến tướng Nava và cả Đờ
Cátxtơri đều tin chắc rằng quân Việt Minh sẽ không dám tiến công Điện Biên Phủ
và nếu tiến công thì sức mạnh của Pháp ở Điện Biên Phủ sẽ nghiền nát quân chủ lực
của Việt Minh. Nava đã rất tự tin khi khẳng định rằng: “Điện Biên Phủ là tập hợp
những gì được phòng thủ mạnh nhất chưa từng có ở Đông Dương”. Tướng Blăng -
Tham mưu trưởng Lục quân Pháp khẳng định “đấy là một Véc-đoong(1) ở Đông Nam Á”; Tướng Đanien - Trưởng
phái đoàn cố vấn và viện trợ quân sự Mỹ cho Pháp sau chuyến thị sát 6 tuần,
“ông ta lên tất cả các điểm tựa, chui vào hầm cố thủ, kiểm tra từng ụ pháo” và
khẳng định “Việt Minh chắc chắn sẽ bị đè bẹp”; Đờ Sơvinhê, Thứ trưởng Bộ chiến
tranh Pháp huênh hoang khẳng định “Điện Biên Phủ là bất khả xâm phạm”.
Nếu chỉ nhìn vào tương quan so sánh lực lượng
của hai bên thì sự tin tưởng của tướng lĩnh Pháp là hoàn toàn có cơ sở. Ở thời
điểm năm 1954, quân Pháp có ưu thế về binh lực và hỏa lực: “Số quân Pháp và tay
sai là 444.900 người trong khi quân đội ta chỉ có 238.000 người. Lính Pháp có
594 khẩu pháo trong đó có 300 khẩu 105mm, trong khi quân đội ta chỉ có 80 khẩu
pháo. Quân Pháp có 10 trung đoàn cộng với 6 tiểu đoàn và 10 đại đội xe tăng,
thiết giáp, trong khi quân đội ta không có xe tăng, thiết giáp. Quân Pháp có
580 máy bay và 391 tàu chiến còn Việt Minh không có máy bay, tàu chiến”(2).
Dù tương quan lực lượng giữa ta và Pháp quá
chênh lệch, song Đảng ta vẫn đặt niềm tin vững chắc vào ý chí, tinh thần và lực
lượng để từ đó phát động toàn Đảng, toàn quân và toàn dân tộc Việt Nam quyết
chiến, quyết thắng. Trong thư gửi cán bộ, chiến sĩ Điện Biên Phủ tháng 12-1953,
Người động viên bộ đội “chiến đấu anh dũng, chịu đựng gian khổ hơn, phải giữ vững
quyết tâm trong mọi hoàn cảnh”. Người nhấn mạnh: “Chiến dịch này là chiến dịch
rất quan trọng không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với
trong nước mà cả đối với quốc tế. Vì vậy, toàn quân, toàn dân, toàn Đảng phải tập
trung hoàn thành cho kỳ được”(3);
“Toàn dân, toàn Đảng và Chính phủ nhất định đem toàn lực chi viện Chiến dịch Điện
Biên Phủ và nhất định làm mọi việc cần thiết để giành toàn thắng cho chiến dịch
này”(4).
Ngày 6-12-1953, Bộ Chính trị họp. Sau khi
nghe Tổng Quân ủy báo cáo tình hình, Bộ Chính trị nhận định: “Về địch, Điện Biên
Phủ sẽ là một tập đoàn cứ điểm mạnh, nhưng có cái yếu cơ bản là bị cô lập, mọi
việc tiếp viện, tiếp tế phải dựa vào đường hàng không. Về ta, với chất lượng đã
được nâng cao thêm một bước… với những kinh nghiệm sẵn có và sự tiến bộ về
trang bị kỹ thuật, quân đội ta tới đây có thể đánh được tập đoàn cứ điểm. Vấn đề
đường sá, tiếp tế cho chiến dịch đúng là những khó khăn. Nhưng với quyết tâm của
toàn Đảng, cả hậu phương… nhất định sẽ bảo đảm cung cấp cho tiền tuyến”(5). Từ đây, một quyết định lịch sử được Bộ
Chính trị đưa ra với ý chí, quyết tâm sắt đá “dốc toàn lực tiêu diệt bằng được
quân địch ở Điện Biên Phủ”.
Từ sự phân tích trên, chúng ta thấy rằng: Chiến
dịch Điện Biên Phủ hoàn toàn khác so với các chiến dịch trước đó. Chúng ta phải
đương đầu với một quân đội nhà nghề mạnh, được trang bị vũ khí hiện đại. Tuy so
sánh lực lượng hết sức chênh lệch, song dân tộc Việt Nam có Đảng tiên phong và
Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đã làm nên một chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động
địa cầu, đập tan sự kháng cự của Pháp trong tập đoàn cứ điểm mạnh nhất, chấm dứt
sự có mặt của quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương.
Rõ ràng, nhìn suốt hành trình tiến hành cuộc
kháng chiến và ở Chiến dịch Điện Biên Phủ đã cho thấy thực dân Pháp lúc đó đã
không đánh giá đúng dân tộc Việt Nam. Và do đó, sau thất bại ở Điện Biên Phủ, họ
vẫn cố gắng đi tìm đáp án cho một câu hỏi “vì sao dân tộc Việt Nam lại giành được
thắng lợi trước một đội quân nhà nghề lớn mạnh đến như vậy?”. Nhiều người trên
thế giới coi thắng lợi của Việt Nam là một câu chuyện huyền thoại. Còn “chúng
ta, những người trong cuộc, đều biết rõ dân tộc Việt Nam đã thắng, trước hết là
do sức sống mãnh liệt của nền văn hóa lâu đời, của truyền thống yêu nước hàng
nghìn năm, của tinh thần đấu tranh bất khuất thà hy sinh tất cả chứ nhất định
không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ, của tư tưởng mà Bác Hồ đã
nêu rõ Không có gì quý hơn độc lập tự do”(6).
Thứ hai, luôn
chủ động, độc lập, tự chủ trong hoạch định đường lối kháng chiến cũng như trong
chỉ đạo thực tiễn chiến dịch
Quyết tâm tiêu diệt địch ở Điện Biên Phủ,
nhưng tiêu diệt bằng cách nào phụ thuộc vào tài thao lược của Đảng. Cần nhấn mạnh
rằng, đây là một trận quyết chiến chiến lược mà cả hai cùng chọn. Vì vậy, tâm
thế của quân ta khi bước vào trận đánh không phải là sự chủ động bày binh, bố
trận, nhử địch vào trận địa mai phục như các trận Bạch Đằng (938), (1288), trận
Như Nguyệt (1077), trận Chi Lăng - Xương Giang (1427), trận Rạch Gầm - Xoài Mút
(1785), trận Ngọc Hồi - Đống Đa (1789)… như đã từng diễn ra trong lịch sử, mà
đây là một trận quyết chiến mà cả hai phía đều có sự chuẩn bị, đều biết trước,
chấp nhận thực tế “một mất một còn” và đều có quyết tâm giành thắng lợi. Trong
điều kiện đó, thắng - bại của trận quyết chiến mấu chốt nằm ở tài thao lược của
mỗi bên.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp,
tài thao lược của Đảng ta được thể hiện ở việc đề ra đường lối kháng chiến đúng
đắn với tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt là “toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức
mình là chính”. Nhờ đó, chúng ta huy động sức mạnh của toàn dân, tạo lập một thế
trận chiến tranh nhân dân: Mỗi đường phố là một mặt trận, mỗi quốc dân là một
chiến sĩ, đánh địch mọi lúc, mọi nơi, tạo “thế trận lòng dân” vững chắc. Nhờ
đó, trong Chiến cuộc Đông - Xuân 1953 - 1954, chiến tranh nhân dân, chiến tranh
du kích đã tiêu diệt hai phần ba (8 vạn) tên địch trên toàn chiến trường Đông
Dương “góp phần quyết định vào việc đánh bại kế hoạch Nava”(7).
Nhờ có chủ trương, đường lối đúng đắn, tạo lập
thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp đã làm phân tán khối cơ động của Pháp
mà tướng Nava dày công tập hợp và đặt nhiều kỳ vọng: 51% bị điều lên chiến trường
rừng núi (Tây Bắc, Luôngphabăng, Mường Sài, Sênô, Plâycu, An Khê…) để ứng phó với
những đòn tấn công của chủ lực Việt Minh có sự hiệp đồng của quân dân tại chỗ,
49% còn lại bị chiến tranh du kích kìm chân đến không còn cơ động nữa. Kết quả
là, địch thì tan, còn ta thì tụ. Để rồi đường tới Điện
Biên Phủ như một “cái bẫy” đặt ra cho Pháp vì đóng quân trong một lòng chảo, Điện
Biên Phủ trở nên trơ trọi.
Mô tả về thế trận ở Điện Biên Phủ, Chủ tịch Hồ
Chí Minh lật ngửa chiếc mũ, đưa tay lên vành mũ rồi nói với nhà báo Ôxtrâylia -
Bớcsét về triển vọng cuộc đụng đầu ở Điện Biên Phủ giữa ta và Pháp: “Đây là rừng
núi, nơi có lực lượng của chúng tôi. Dưới kia là thung lũng Điện Biên Phủ (đáy
mũ), ở đó người Pháp với những đội quân tinh nhuệ nhất. Họ sẽ không bao giờ ra
được - tuy có mất một ít thời gian”(8).
Theo binh pháp thì: “Được thế tốt… lúc đánh, thì thế như lăn đá tròn xuống núi
cao mấy nghìn thước”(9).
Khi quyết định giao chiến với thực dân Pháp ở
Điện Biên Phủ, tài thao lược của Đảng thể hiện ở việc nghiên cứu, đánh giá đúng
tương quan lực lượng của ta và địch, bám sát thực tiễn chiến trường, dựa chắc
vào đường lối kháng chiến “toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là
chính” để đi đến quyết định thay đổi phương châm tác chiến từ “đánh nhanh, giải
quyết nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”.
Việc thay đổi đó là bởi ban đầu, khi quân địch
mới nhảy dù xuống, lực lượng của địch chưa được tăng cường, bố trí của chúng
còn tương đối sơ hở, quân ta thực hiện bao vây Điện Biên Phủ theo phương châm
“đánh nhanh, giải quyết nhanh”, thời gian Chiến dịch dự kiến 3 đêm 2 ngày, nổ
súng vào ngày 20-1-1954. Nhưng với nhãn quan khoa học, tư duy chính trị - quân
sự sắc sảo và tài thao lược của Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp khi được Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh “giao toàn quyền”, trên cơ sở phân tích thế trận: địch không
còn ở trong trạng thái lâm thời phòng ngự, mà đã trở thành một tập đoàn cứ điểm
phòng ngự kiên cố, pháo binh của ta là hỏa lực chủ yếu của chiến dịch lại không
kéo được vào trận địa đúng thời gian, yêu cầu, “nếu đánh nhanh giải quyết
nhanh thì tổn thất sẽ rất lớn, chắc chắn sẽ thất bại”(10).
Sau 11 ngày đêm suy tính, nhất là đêm
25-01-1954 hầu như không chợp mắt, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đi đến một quyết
định khó khăn nhất trong cuộc đời cầm quân của mình: Tạm ngừng nổ súng, kéo
pháo ra, chuẩn bị thêm để đánh theo phương châm tác chiến mới là “đánh chắc, tiến
chắc”. Nói là quyết định khó khăn bởi bộ đội ta đã được chuẩn bị để đánh
nhanh, bộ binh đã triển khai đội hình, phần lớn pháo binh đã vào trận địa nay lại
rút ra làm cho tư tưởng bộ đội dễ hoang mang. Hơn thế, mọi công tác chuẩn bị đều
phải làm lại từ đầu, những khó khăn về cung cấp, vận tải tiếp tế khi mùa mưa đến...
sẽ tăng lên, nhưng không thể không thay đổi.
Quyết định chuyển sang phương châm “đánh chắc,
tiến chắc” chính là quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Trung ương Đảng thể hiện trong Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa II (họp từ 25 đến 30-1-1953), Hội nghị Bộ Chính trị tháng 10-1953 tại Tỉn
Keo (Thái Nguyên), phương án tác chiến Đông - Xuân 1953 - 1954, ngày 6-12-1953
của Tổng Quân ủy trình Bộ Chính trị và cũng là kế thừa kinh nghiệm “lấy nhỏ
đánh lớn”, “lấy ít địch nhiều” của nền nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Trong Báo cáo của Tổng Bí thư Trường Chinh tại
Hội nghị Trung ương lần thứ tư đã đưa ra tư tưởng chỉ đạo: “ta không chủ quan
khinh địch, không nóng vội, không mạo hiểm. Đánh ăn chắc, tiến ăn chắc. Chắc thắng
thì kiên quyết đánh cho kỳ thắng. Không chắc thắng thì kiên quyết không đánh. Nếu
chủ quan mạo hiểm một lần mà thua nặng thì sẽ tai hại lớn. Chiến trường của ta
hẹp, người của ta không nhiều, nên nói chung ta chỉ có thắng chứ không được bại,
vì bại là hết vốn”(11).
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “phải đánh
cho thắng, chắc thắng mới đánh”. Báo cáo của Tổng quân ủy ngày 6-12-1953, khi địch
mới nhảy dù xuống Điện Biên Phủ cũng đã trù liệu thời gian tiến hành trận công
kiên lớn nhất này khoảng 45 ngày. Một sự dự báo gần như trở thành hiện thực ở
Điện Biên Phủ. Trải qua “Năm mươi sáu ngày đêm, khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm,
cơm vắt/ Máu trộn bùn non/ Gan không núng/ Chí không mòn!”, quân ta đã tiêu diệt
hoàn toàn tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. 17 giờ 30 phút ngày 7-5-1954, Tướng Đờ
Cátxtơri và toàn bộ Bộ Tham mưu quân Pháp ở Điện Biên Phủ bị bắt. Lá cờ “Quyết
chiến, Quyết thắng” tung bay trên nóc hầm chỉ huy của địch.
Thứ ba, Điện
Biên Phủ - nơi hội tụ cao nhất của ý chí tự lực, tự cường, vượt qua mọi khó
khăn gian khổ quyết giành thắng lợi cuối cùng
Quyết định thay đổi cách đánh, đồng nghĩa với
mọi công tác chuẩn bị phải làm lại từ đầu, khó khăn chồng chất. Bởi Điện Biên
Phủ là một tập đoàn gồm 49 cứ điểm, được tổ chức thành 8 cụm cứ điểm - trung
tâm đề kháng - liên hoàn với nhau, với lực lượng phòng ngự và lực lượng cơ động,
hỏa lực mạnh… Nơi đây lại là một chiến trường rừng núi hiểm trở, đường sá chưa
được mở mang, ở xa hậu phương của ta (từ 400-500km). Trong các chiến dịch trước
đó, bộ đội ta chỉ sử dụng ít lực lượng, chiến trường lại gần hậu phương, việc
hành quân, vận chuyển đạn dược, lương thực, thực phẩm gặp nhiều khó khăn, lương
thực cạn kiệt và nhiều lúc đã phải ăn cháo cầm hơi. Đến Chiến dịch Điện Biên Phủ,
quy mô hoàn toàn lớn hơn, lực lượng sử dụng nhiều hơn, chiến trường xa hơn… thì
khó khăn sẽ lớn hơn gấp bội phần.
Trong triển khai lực lượng, sự thay đổi đối với
bộ binh đã là điều không đơn giản, vì vậy đối với pháo binh, vấn đề lại càng phức
tạp hơn nhiều. Pháo vào trận địa chỉ bằng sức đẩy, sức kéo của con người, trong
khi đó đã kéo pháo vào lại kéo ra, rồi lại kéo vào trên một hướng khác; phải
làm đường mới, phải chống pháo địch đánh phá liên tiếp ngày đêm, nhất là ở các
điểm nút di chuyển... Bên cạnh đó, quá trình diễn ra chiến dịch, chúng ta còn
phải đấu tranh chống tư tưởng hữu khuynh, đánh giá địch cao, không tin ở phương
án “đánh chắc, tiến chắc”. Vấn đề đặt ra lúc này là phải làm sao thống nhất về
mặt ý chí và hành động để có được quyết tâm từ trên xuống dưới, đồng sức, đồng
lòng quyết tâm giành thắng lợi.
Thực tiễn nêu trên cho thấy thành công rất lớn
từ công tác tư tưởng - chính trị trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, nhờ đó đã quy
tụ được sự đồng sức, đồng lòng, sự tin tưởng tuyệt đối của toàn quân, toàn dân
vào sự lãnh đạo của Đảng. Trong quá trình chuẩn bị nhằm phục vụ cho phương châm
tác chiến mới, nhiều khẩu hiệu động viên đã được nêu ra:Chuẩn bị tốt là đã
giành thắng lợi một nửa!; Đem sức lao động ra để làm đường kéo pháo, xây dựng
các trận địa tấn công, đổ mồ hôi hôm nay để ngày mai tiết kiệm xương máu cho đồng
đội!; Bảo đảm đường sá thông suốt là bảo đảm thắng lợi!; Xây dựng công sự dày
thêm một tấc là tạo thêm điều kiện để chiến thắng quân địch!”.
Với tinh thần tự lực, tự cường, quán triệt tư
tưởng chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Cố nhiên, sự giúp đỡ của các nước bạn
là quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người khác. Một
dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng
đáng được độc lập”(12). Toàn dân
tộc Việt Nam đã tập trung mọi nguồn lực chi viện cho Điện Biên Phủ. Cùng với
các đơn vị quân đội tiến lên Điện Biên Phủ là hàng vạn thanh niên xung phong phối
hợp với công binh mở hàng trămkilômét đường. Chúng ta đã huy động 261.461 dân
công với tổng 18.301.570 ngày công phục vụ chiến dịch, vận chuyển 27.400 tấn gạo
cho Điện Biên Phủ; huy động 628 xe vận tải, 11.800 thuyền bè, hơn 20.000 xe đạp
thồ, 500 ngựa thồ và hàng nghìn xe trâu, bò kéo phục vụ Chiến dịch.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã khẳng định: “nhân
dân ta không những cung cấp cho bộ đội mọi nhu cầu chiến đấu và chiến đấu bên cạnh
bộ đội, mà còn chăm lo cho bộ đội từng cái kim, sợi chỉ, miếng quà, tấm bánh, gửi
hàng nghìn bức thư cổ vũ, gửi đến cho chiến sĩ cả tấm lòng thương yêu đùm bọc của
toàn dân, truyền cho chiến sĩ cả nhiệt tình của hàng triệu nhân dân đang phấn
khởi sôi nổi tiến hành cải cách ruộng đất”.
Có thể khẳng định, chỉ có lòng yêu nước nồng
nàn, một tinh thần tự lực, tự cường, tự tôn dân tộc và một quyết tâm bảo vệ nền
độc lập, thống nhất Tổ quốc mới có được sức mạnh tổng lực như vậy. Và đó chính
là sức mạnh nội sinh tiềm tàng quyết định chiến thắng.Guyn Roi - một nhà văn,
nhà báo người Pháp từng nhận xét: “Không phải viện trợ từ bên ngoài đã đánh bại
tướng Nava, mà chính là những chiếc xe đạp thồ 200 - 300 kg hàng và đẩy bằng sức
người, những con người ăn chưa đủ no và ngủ thì nằm ngay dưới đất trải tấm
nilông. Cái đã đánh bại tướng Nava không phải là phương tiện, mà là sự thông
minh và ý chí của đối phương”(13).
2. Khát vọng đấu tranh vì hòa
bình, độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân trong Chiến dịch Điện Biên
Phủ với việc khơi dậy khát vọng, ý chí quyết tâm xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh
phúc hiện nay
Trong bối cảnh đất nước có chiến tranh, mưu cầu
hòa bình, độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân là mục tiêu tối thượng
thì khi đất nước hòa bình, mục tiêu phát triển kinh tế, xây dựng đất nước, khát
vọng vươn lên để khẳng định tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế của đất nước
luôn được đặt lên hàng đầu. Đại hội XIII của Đảng đã xác định mục tiêu: “khơi dậy
khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”(14). Nhìn từ góc độ bài học lịch sử từ Chiến dịch Điện
Biên Phủ, cần nhận thức và giải quyết các vấn đề sau nhằm góp phần hiện thực
hóa khát vọng phát triển đất nước.
Thứ nhất, tiếp
tục nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng. Bởi Đảng có vững thì sự nghiệp phát
triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc mới thành công. Đảng có trong sạch mới tạo
dựng, củng cố được niềm tin, lòng tin của dân đối với Đảng. Dân tin yêu Đảng, một
lòng một dạ phụng sự, cống hiến xây dựng Tổ quốc - đó chính là sức mạnh nội
sinh tiềm tàng cho sự phát triển vững bền.
Thứ hai, làm tốt
công tác giáo dục, tuyên truyền chủ nghĩa yêu nước, tinh thần tự lực, tự cường
của dân tộc. Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, Đảng ta đã rất thành công trong việc
huy động toàn dân hướng về Điện Biên Phủ với tinh thần “tất cả cho tiền tuyến,
tất cả để chiến thắng”. Ngày nay, sứ mệnh của Đảng là tiếp tục thắp sáng ngọn lửa
đó trong toàn xã hội nhằm hướng tới mục tiêu chấn hưng dân tộc phồn
vinh và hạnh phúc, hưng thịnh và phát triển. Nếu trước kia, rửa nỗi nhục mất
nước, mất độc lập, mất quyền tự do, dân sinh, dân chủ là “mẫu số chung” để toàn
dân tộc Việt Nam đồng sức, đồng lòng đứng lên “thà hy sinh tất cả chứ nhất định
không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” thì ngày nay, vấn đề đặt
ra là phải làm cho mọi người dân ý thức được sự tụt hậu xa hơn về kinh tế, về nỗi
nhục của đói nghèo, chậm phát triển… để từ đó khơi dậy ý chí tự tôn dân tộc, ý
chí làm giàu cho bản thân, cho gia đình, cho quê hương, đất nước.
Thứ ba, cùng với công tác
tuyên truyền, giáo dục về truyền thống dân tộc, chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, cần phải có những chính sách, giải pháp nhằm
khơi dậy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng
với nhân dân. Bởi đó là nguồn sức mạnh nội sinh tiềm tàng, là động lực chủ yếu
và là nhân tố quyết định bảo đảm cho việc hiện thực hóa khát vọng phát triển đất
nước.
Thứ tư,tăng cường hợp
tác quốc tế, tạo lập và phát huy nguồn lực bên ngoài. Xu thế toàn cầu hóa và hội
nhập quốc tế, vừa hợp tác, vừa đấu tranh hiện nay đòi hỏi các quốc gia, các
chính đảng cầm quyền phải thực thi đường lối đối ngoại mềm dẻo, linh hoạt nhưng
giữ vững nguyên tắc: đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên hàng đầu. Chính vì vậy,
để giữ vững độc lập dân tộc, xây dựng và phát triển đất nước bền vững, cùng với
việc huy động tối đa các nguồn lực trong nước, phải tranh thủ các nguồn lực từ
bên ngoài trên cơ sở chủ động và tích cực hội nhập sâu rộng, ổn định, lâu dài;
mở rộng những điểm tương đồng, thu hẹp những điểm khác biệt về lợi ích, phấn đấu
không để những khác biệt ấy biến thành mâu thuẫn hoặc xung đột lợi ích.
Phát huy tinh thần quyết chiến, quyết thắng
Điện Biên Phủ, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta ra sức phấn đấu thực hiện thắng
lợi các mục tiêu do Đại hội XIII của Đảng đề ra; không ngừng “Nâng cao năng lực
lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Ðảng; xây dựng Ðảng và hệ thống
chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của
nhân dân đối với Ðảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng
phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc
đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc,
giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở
thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(15).
(nguồn lyluanchinhtri.vn)
Ngày
nhận bài: 24-4-2024; Ngày bình duyệt: 26-4-2024; Ngày duyệt đăng: 3-5-2024.
(1) Hàm ý nói về “Cối xay thịt” - Trận chiến
Verdun ở mặt trận phía Tây trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, giữa quân đội Đức
và Pháp từ 21-2 đến 19-12-1916 xung quanh Verdun-sur-Meuse ở Đông Bắc nước
Pháp.
(2) Ban Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính
trị: Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945 - 1975 - Thắng lợi và bài học,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.487.
(3) Chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho đồng
chí Võ Nguyên Giáp tháng 12-1953.
(4) ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập,
t.15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.88.
(5) Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện
Lịch sử Đảng:Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tập I (1930-1954)/quyển 2
(1945-1954), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2018, tr.439-440.
(6) Việt Nam trong thế kỷ XX, t.1,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.45.
(7) Đại tướng Hoàng Văn Thái: Một số suy
nghĩ về những bài học lớn của cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân
1953 -1954…, in trong Mấy vấn đề chiến thắng lịch sử Điện Biên
Phủ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1985, tr.19.
(8) Bớcsét: Hồi ký, Nxb Thông
tin lý luận, Hà Nội, tr.225.
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.3, Nxb
Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.523.
(10) Võ Nguyên Giáp: Điện Biên Phủ
xưa và nay, Tạp chí Xưa và Nay, số 2, tháng 5-1994.
(11) ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập,
t.4, Sđd, tr.59.
(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập,
t.6, Sđd, tr.522.
(13) Jules Roy: Trận Điện Biên Phủ
dưới con mắt người Pháp, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2004, tr.449.