
Nguồn nhân lực kỹ thuật quân sự có vai trò quan trọng trong việc
nâng cao sức mạnh tổng hợp và tính hiện đại của quân đội_ Ảnh: IT
1. Mở đầu
Nguồn nhân lực kỹ thuật quân sự là tổng hòa
các yếu tố về số lượng, chất lượng của lực lượng kỹ thuật gồm sĩ quan, quân
nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng, nhân viên chuyên môn kỹ
thuật… công tác trong nhiều lĩnh vực, với chuyên môn khác nhau thuộc các cơ
quan, học viện, nhà trường, đơn vị trong quân đội. Nguồn nhân lực kỹ thuật là một
bộ phận quan trọng của nguồn nhân lực trong quân đội, là yếu tố quyết định nâng
cao chất lượng, hiệu quả quản lý, sử dụng, bảo quản, sửa chữa, cải tiến các loại
vũ khí, trang bị kỹ thuật của quân đội, tham gia vào quá trình đào tạo, bồi dưỡng,
góp phần tăng cường tiềm lực khoa học, công nghệ quốc phòng, đáp ứng yêu cầu
phát triển, hiện đại hóa quân đội trong giai đoạn hiện nay.
2. Nội dung
2.1 Nhân lực kỹ thuật - nguồn lực quan
trọng của quân đội
Nguồn nhân lực trong quân đội nói chung, nhân
lực kỹ thuật nói riêng có vai trò rất quan trọng, là lực lượng thực hiện công
tác quản lý, bảo quản, khai thác, sử dụng và nghiên cứu nâng cao chất lượng, hiệu
quả các loại vũ khí, trang bị kỹ thuật phục vụ cho nhiệm vụ thường xuyên, như:
công tác huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu. Ngoài ra, còn thực hiện các nhiệm vụ đột
xuất khác, như: phòng chống lụt bão, khắc phục hậu quả thiên tai, tìm kiếm, cứu
hộ, cứu nạn (gần đây là cơn bão số 3 (Yagi)... đồng thời, còn phục vụ cho các sự
kiện quan trọng của đất nước và quốc tế.
Nhân lực kỹ thuật quân sự đóng vai trò chủ đạo
trong công việc nghiên cứu, thiết kế và phát triển các kỹ thuật, công nghệ quân
sự mới, như: các loại vũ khí công nghệ cao, hệ thống ra-đa, ứng dụng trí tuệ
nhân tạo, công nghệ tàng hình và xây dựng hệ thống phòng thủ hiện đại… Cùng
toàn quân, nguồn nhân lực kỹ thuật luôn sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi
trước các phương thức chiến tranh mới, bảo đảm ưu thế chiến lược về quốc phòng,
phục vụ sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Tổng kết năm 2024, Bộ Quốc phòng đánh giá kết
quả thực hiện công tác kỹ thuật trong quân đội, đã bám sát thực tiễn, bảo đảm kịp
thời cho nhiệm vụ quân sự, quốc phòng và các nhiệm vụ khác: “Thẩm định, nghiệm
thu chặt chẽ các chương trình, đề án, dự án mua sắm, tăng hạn, sửa chữa, cải tiến,
hiện đại hóa vũ khí trang bị kỹ thuật. Chủ động nghiên cứu, sản xuất nhiều loại
vật tư kỹ thuật với gần 800 danh mục và gần 90.000 sản phẩm vật tư kỹ thuật”(1).
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh, phải “ra
sức đào tạo thật nhiều cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý cần thiết cho sản xuất
phát triển”(2). Do đó, để thực hiện
thắng lợi sự nghiệp xây dựng CNXH, cần quan tâm xây dựng, phát triển nguồn nhân
lực, trong đó có nhân lực kỹ thuật. Đối với quá trình phát triển của nước ta,
xây dựng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao là giải pháp quan trọng,
là một trong các khâu đột phá để khắc phục thách thức tụt hậu xa hơn về kinh tế,
đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước; giữ vững độc lập, tự chủ và chủ động hội
nhập quốc tế, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về củng cố, tăng cường quốc phòng -
an ninh. Đảng chủ trương: “Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực
chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội
nhập quốc tế”(3).
Là một bộ phận quan trọng của xã hội, quân đội
còn tham gia vào các hoạt động chung, nhiều lĩnh vực của xã hội. Do đó, việc quân
đội tham gia vào các hoạt động xây dựng và phát triển kinh tế, góp phần tạo nguồn
của cải vật chất cho xã hội và giải quyết một phần nhu cầu của quân đội vừa là
chức năng, vừa thể hiện bản chất, truyền thống tốt đẹp của quân đội. Nghiên cứu,
ứng dụng và triển khai các công nghệ hiện đại, phát triển ngành công nghiệp quốc
phòng, đồng thời sản xuất hàng hóa, dịch vụ khoa học kỹ thuật phục vụ lĩnh vực
dân sự là một nhiệm vụ quan trọng của công nghiệp quốc phòng nói chung và của
các viện nghiên cứu khoa học kỹ thuật quân sự nói riêng. Đây là yêu cầu quan trọng
góp phần làm cho công nghiệp quốc phòng bảo toàn được năng lực nghiên cứu, triển
khai công nghệ, sản xuất quân sự và đội ngũ công nhân lành nghề, góp phần nâng
cao sức mạnh chiến đấu của quân đội. Đội ngũ sĩ quan quân đội, đặc biệt là nhân
lực kỹ thuật không thể tách rời sự nghiệp chung của đất nước, đóng góp tích cực
và hiệu quả vào công cuộc xây dựng đất nước, phát triển kinh tế, xã hội.
Nguồn nhân lực kỹ thuật có vai trò quan trọng
đối với nhiệm vụ nghiên cứu, sản xuất vũ khí, đặc biệt là một số chủng loại vũ
khí, khí tài hỏa lực mạnh; nâng cao năng lực sửa chữa, cải tiến, hiện đại hóa
các loại vũ khí, trang bị kỹ thuật có trong biên chế, như: sửa chữa các loại
tàu chiến đấu mặt nước, tàu ngầm, máy bay thế hệ mới... Đồng thời, nhân lực kỹ
thuật quân sự là lực lượng đi đầu trong hoạt động nghiên cứu, ứng dụng các
thành tựu công nghệ hiện đại như: trí tuệ nhân tạo, internet vạn vật, dữ liệu lớn,…
vào trong phát triển nền công nghiệp quốc phòng hiện đại, lưỡng dụng. Cùng với
đó, một bộ phận nguồn lực kỹ thuật công tác tại các học viện, nhà trường, các
viện nghiên cứu khoa học kỹ thuật quân sự thực hiện nhiệm vụ giáo dục - đào tạo,
giảng dạy, nghiên cứu các lĩnh vực khác nhau của ngành khoa học kỹ thuật, đòi hỏi
phải có trình độ, năng lực, chuyên môn cao, phẩm chất đạo đức tốt, có vai trò
quan trọng trong việc trang bị cho người học những kiến thức khoa học kỹ thuật
cần thiết, đóng góp vào sự nghiệp giáo dục - đào tạo, nghiên cứu khoa học đáp ứng
yêu cầu xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh, làm nền tảng tiến lên hiện đại.
Như vậy, trước những yêu cầu, nhiệm vụ mới,
là quá trình thực hiện xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh, bên cạnh việc quản
lý, bảo quản, sửa chữa vũ khí, trang bị kỹ thuật là quá trình nghiên cứu ứng dụng
công nghệ mới, tiên tiến, hiện đại, từng bước làm chủ các công nghệ nền, công
nghệ lõi trong nghiên cứu thiết kế, chế thử, sản xuất vũ khí, trang bị kỹ thuật
chiến lược, công nghệ cao. Trong bối cảnh đó, đòi hỏi các cơ quan, đơn vị cần
quan tâm xây dựng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực kỹ thuật đủ về số lượng,
cơ cấu hợp lý, cân đối, đồng bộ về ngành nghề và trình độ, năng lực cao, bảo đảm
tính vững chắc, lâu dài.
2.2. Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực kỹ thuật trong quân đội hiện nay
Trong bối cảnh hiện nay, để tạo nguồn nhân lực
kỹ thuật quân sự có chất lượng cao, cần thực hiện tốt các nội dung sau:
Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của
các tổ chức, lực lượng về tầm quan trọng của nguồn nhân lực kỹ thuật trong quân
đội
Cần nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của
nguồn nhân lực kỹ thuật để phát huy trách nhiệm của các tổ chức, lực lượng
trong đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nguồn nhân lực này. Nhân lực kỹ thuật là một
bộ phận quan trọng của quân đội, là lực lượng xung kích giữ vai trò nòng cốt
trong nhiệm vụ phát triển nền khoa học - kỹ thuật quân sự của đất nước, thúc đẩy
nền công nghiệp quốc phòng phát triển theo hướng lưỡng dụng. Bởi vậy, xây dựng
nguồn nhân lực kỹ thuật vừa là nhiệm vụ quan trọng trước mắt, vừa có ý nghĩa cơ
bản, lâu dài, cần được các tổ chức, lực lượng trong quân đội quán triệt, nhận
thức đầy đủ và phát huy trách nhiệm trong phát triển, sử dụng mà trước hết là cấp
ủy đảng các cấp.
Nhận thức rõ sự cần thiết phải nâng cao chất
lượng nhân lực kỹ thuật quân sự, đòi hỏi các tổ chức, lực lượng cần quan tâm
lãnh đạo, chỉ đạo có hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nguồn nhân lực,
bảo đảm tốt điều kiện làm việc, nghiên cứu, học tập. Thường xuyên phát động các
phong trào thi đua trong nghiên cứu, sáng tạo khoa học quân sự. Tăng cường sự đầu
tư kinh phí, quan tâm, khuyến khích đổi mới sáng tạo, khích lệ động viên nhân lực
kỹ thuật tích cực tham gia các hoạt động nghiên cứu khoa học, sáng kiến cải tiến
kỹ thuật phục vụ cho thực hiện các nhiệm vụ và các hoạt động khác tại đơn vị.
Có biện pháp cụ thể để hỗ trợ, tạo điều kiện cho cán bộ, nhân viên kỹ thuật
tham gia nghiên cứu khoa học các cấp toàn quân, toàn quốc, đáp ứng yêu cầu xây
dựng đơn vị và quân đội trong thời kỳ mới.
Hai là, chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng
nguồn nhân lực kỹ thuật
Để xây dựng, phát triển nguồn nhân lực kỹ thuật,
cần tập trung đào tạo, bồi dưỡng nhân lực kỹ thuật ở các cấp. Đây là nội dung
quan trọng, cơ bản và lâu dài, có ý nghĩa chiến lược trong xây dựng tiềm lực
khoa học kỹ thuật cho quân đội. Về mục đích của công tác đào tạo, bồi dưỡng
nhân lực, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để
phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”(4), “Học để sửa chữa tư tưởng... tu dưỡng đạo
đức cách mạng... Học để tin tưởng... Học để hành”(5).
Do đó, việc đào tạo, bồi dưỡng nhân lực kỹ thuật quân sự phải bảo đảm sự toàn
diện, chuyên sâu, có năng lực chuyên môn giỏi và kỹ năng thành thạo, phương
pháp làm việc khoa học, có ý nghĩa quyết định đến chất lượng, hiệu quả thực hiện
nhiệm vụ của nguồn nhân lực kỹ thuật trong quân đội.
Cần coi trọng bồi dưỡng nguồn nhân lực kỹ thuật
về phẩm chất đạo đức, lối sống, bản lĩnh chính trị, rèn luyện phương pháp, tác
phong công tác, chấp hành kỷ luật, giải quyết hài hòa các mối quan hệ xã hội của
cá nhân; tiến hành bồi dưỡng toàn diện về chuyên môn nghề nghiệp, trình độ lý
luận, chính trị, văn hóa,... xây dựng cả đức và tài trong đó đức là gốc. Quan
tâm bồi dưỡng sát thực tế “học đi đôi với hành”, tăng cường rèn luyện, thử
thách qua thực tiễn tại đơn vị cơ sở để nâng cao tay nghề, thành thạo các kỹ
năng chuyên môn.
Tiếp tục quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở vật
chất các học viện, nhà trường của quân đội theo định hướng hiện đại, đáp ứng
yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay. Nâng cao chất lượng
đào tạo, bồi dưỡng nhân lực kỹ thuật ở từng cấp đòi hỏi các cơ sở đào tạo, các
cơ quan, đơn vị tập trung hoàn thiện mục tiêu, đổi mới nội dung, chương trình
đào tạo, bồi dưỡng; chú trọng chất lượng nguồn tuyển chọn đầu vào; quan tâm
nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, đáp ứng yêu cầu phát triển của công tác
khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự, xây dựng quân đội theo hướng hiện đại.
Nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng quân
đội trong tình hình mới theo tinh thần chủ động, tăng cường hợp tác quốc tế và
hiệu quả, công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực kỹ thuật quân sự phải tăng
cường các hoạt động hợp tác với các trường đại học, viện nghiên cứu nước ngoài
để nâng cao trình độ nhân lực kỹ thuật, nhất là tham gia đào tạo, nghiên cứu,
chuyển giao công nghệ phục vụ công nghiệp quốc phòng. Tạo điều kiện cho nhân lực
kỹ thuật quân sự tham gia vào các dự án hợp tác quốc tế về khoa học công nghệ,
thuận lợi trong chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm với các đồng nghiệp từ các
quốc gia khác trên thế giới. Tạo cơ chế để họ tham gia vào các nghiên cứu liên
ngành, kết hợp giữa khoa học quân sự và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội
như: y tế, sinh học và môi trường… góp phần tạo ra các giải pháp toàn diện cho
lĩnh vực quốc phòng - an ninh và phát triển kinh tế - xã hội.
Ba là, có cơ chế, chính sách đặc thù đối với
nguồn nhân lực kỹ thuật trong quân đội
Chính sách xã hội đóng vai trò quan trọng
trong việc xây dựng, duy trì và phát triển nhân lực kỹ thuật quân sự trong bối
cảnh hiện đại hóa quân đội và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Tốc độ phát triển và hiệu
quả hoạt động khoa học kỹ thuật quân sự phụ thuộc lớn vào việc bố trí, thực hiện
các chính sách xã hội hợp lý đối với nguồn nhân lực kỹ thuật trong quân đội. Việc
đào tạo, bố trí, sử dụng nhân lực phù hợp, quan tâm thực hiện các chế độ, chính
sách phúc lợi hợp lý, chính sách hậu phương quân đội, bảo đảm điều kiện đời sống,
làm việc tốt, khuyến khích sáng tạo và điều kiện phát triển sự nghiệp có ý
nghĩa quan trọng trong nâng cao chất lượng nguồn nhân lực kỹ thuật trong quân đội.
Đại hội XIII của Đảng khẳng định, cần “Có cơ
chế phát huy dân chủ, tự do sáng tạo và đề cao đạo đức, trách nhiệm trong
nghiên cứu khoa học. Ưu tiên đầu tư phát triển hạ tầng, môi trường làm việc,
nghiên cứu, đổi mới sáng tạo của trí thức. Trọng dụng, đãi ngộ thoả đáng đối với
nhân tài, các nhà khoa học và công nghệ Việt Nam có trình độ chuyên môn cao ở
trong nước và nước ngoài, nhất là các nhà khoa học đầu ngành, nhà khoa học có
khả năng chủ trì các nhiệm vụ khoa học và công nghệ đặc biệt quan trọng”(6). Vì vậy, việc bố trí, sử dụng hợp lý,
cùng với việc đãi ngộ xứng đáng về vật chất và tinh thần đối với nguồn nhân lực
kỹ thuật quân sự là những vấn đề quan trọng nhằm phát huy tối đa năng lực
chuyên môn và tinh thần trách nhiệm, tâm huyết gắn bó với nghề nghiệp.
Việc phát hiện, quan tâm bồi dưỡng, bố trí, sử
dụng nguồn nhân lực kỹ thuật để phát huy tài năng của họ trong lĩnh vực kỹ thuật
không chỉ thể hiện ở quan điểm, chủ trương mà phải được thực hiện thông qua các
cơ chế, chính sách cụ thể về đãi ngộ cụ thể, hỗ trợ trong công việc và cuộc sống.
Có cơ chế hỗ trợ cho các sáng kiến đổi mới sáng tạo được công bố, ứng dụng vào
trong thực tiễn, đồng thời có các chính sách hỗ trợ, khen thưởng, tôn vinh thỏa
đáng. Xây dựng, ban hành chế độ công tác, nghiên cứu khoa học hợp lý, sát với
nhiệm vụ, các đối tượng, cụ thể hóa các quy định, định mức làm việc cho cán bộ,
nhân viên kỹ thuật theo từng cấp.
Bốn là, tạo dựng môi trường học tập, nghiên cứu
khoa học bảo đảm sự dân chủ, đổi mới và sáng tạo
Xây dựng môi trường học tập và nghiên cứu
khoa học dân chủ, đổi mới, sáng tạo là yếu tố quan trọng để phát triển nguồn
nhân lực kỹ thuật chất lượng cao, đặc biệt trong lĩnh vực kỹ thuật quân sự. Tập
trung hiện đại hóa cơ sở vật chất và trang thiết bị đào tạo nhằm thúc đẩy chất
lượng giáo dục, huấn luyện. Việc đầu tư vào hạ tầng, khoa học công nghệ đào tạo
giúp nâng cao năng lực nghiên cứu, giảng dạy và thực hành, bảo đảm người học có
đủ kiến thức và kỹ năng để làm chủ vũ khí, trang bị hiện có và phát triển mới;
tập trung xây dựng hệ thống cơ sở vật chất đào tạo, đặc biệt là tại các học viện,
nhà trường quân đội, xây dựng phòng thí nghiệm, trung tâm nghiên cứu chuyên
sâu, thao trường, bãi tập theo hướng hiện đại. Tích cực nghiên cứu ứng dụng
công nghệ số vào đào tạo (tập trung vào các học viện, nhà trường và các viện
nghiên cứu) như: đào tạo trực tuyến, ứng dụng mô phỏng, thực tế ảo, tích hợp
công nghệ Big data, AI vào huấn luyện…
Trong môi trường nghiên cứu khoa học, qua việc
làm, hoạt động cụ thể, mỗi cán bộ, nhân viên kỹ thuật sẽ tiếp nhận những chuẩn
mực xã hội và nghề nghiệp khoa học, kỹ thuật phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của
bản thân, biến thành nhận thức, tình cảm của cá nhân. Ở trong môi trường khoa học
quân sự lành mạnh, dân chủ mới tạo ra những điều kiện thuận lợi để nguồn nhân lực
kỹ thuật phát huy mọi tiềm năng sáng tạo nghiên cứu khoa học và xây dựng đơn vị.
Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ
tư và hội nhập quốc tế sâu rộng, việc đẩy mạnh đổi mới sáng tạo là động lực
quan trọng nhằm thúc đẩy sự phát triển, không chỉ giúp nâng cao sức mạnh chiến
đấu mà còn đóng vai trò quyết định trong sự nghiệp hiện đại hóa quân đội, bảo vệ
Tổ quốc. Để giải quyết tốt vấn đề này, cần thực hiện nhiều biện pháp như: xây dựng
môi trường làm việc, môi trường sống, môi trường văn hóa lành mạnh, xây dựng cơ
chế khuyến khích học tập suốt đời, xây dựng môi trường nghiên cứu sáng tạo,
khuyến khích đột phá, quan tâm hỗ trợ phát triển các ý tưởng sáng tạo... Cùng với
đó, cần quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại, xây dựng các
phòng thí nghiệm, trung tâm nghiên cứu chuyên sâu đạt tiêu chuẩn, phát triển hệ
thống thư viện số, kho dữ liệu trực tuyến để hỗ trợ nghiên cứu, cung cấp thiết
bị công nghệ cao phục vụ thí nghiệm, thử nghiệm quân sự.
Năm là, phát huy tính chủ động, tự bồi dưỡng
phẩm chất, năng lực, khát vọng cống hiến của nguồn nhân lực kỹ thuật
Trong quân đội, đặc biệt là đối với nguồn
nhân lực kỹ thuật, tính chủ động và tự bồi dưỡng phẩm chất, năng lực và khát vọng
cống hiến có vai trò vô cùng quan trọng. Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của quân
đội trong tình hình mới, nguồn nhân lực kỹ thuật không chỉ cần có trình độ
chuyên môn cao mà còn phải có phẩm chất chính trị vững vàng, có bản lĩnh, ý chí
phấn đấu và tinh thần cống hiến. Thực hiện được việc này, trước hết, phải xây dựng
động cơ đúng đắn, tinh thần chủ động, ý thức trách nhiệm tự học, tự rèn luyện,
chủ động khắc phục khó khăn, nỗ học tập nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học
và không ngừng đổi mới, sáng tạo; tự bồi dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức nghề
nghiệp, tự tích lũy, củng cố, hoàn thiện, chủ động nâng cao trình độ chuyên
môn, kỹ thuật, kinh nghiệm công tác, xây dựng năng lực tư duy sáng tạo, đổi mới;
tự tu dưỡng, rèn luyện hiện thực hóa khát vọng cống hiến của bản thân theo tinh
thần “7 dám”: dám nghĩ để phát triển tư duy sáng tạo, đổi mới; dám thực hiện,
hành động; dám chịu trách nhiệm về công việc và kết quả thực hiện nhiệm vụ; dám
đưa lợi ích tập thể lên trên lợi ích cá nhân; dám đối mặt với thử thách, gian khổ;
dám đấu tranh chống những điều sai trái, bảo vệ lẽ phải, cái đúng và sẵn sàng
hy sinh vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
3. Kết luận
Nguồn nhân lực kỹ thuật quân sự có vai trò
quan trọng trong việc nâng cao sức mạnh tổng hợp và tính hiện đại của quân đội,
cần tiếp tục phát huy vai trò tích cực, chủ động phối hợp chặt chẽ giữa các lực
lượng liên quan trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nguồn nhân lực kỹ
thuật. Phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực kỹ thuật quân sự là một
nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược, góp phần quan trọng thực hiện phương hướng xây
dựng Quân đội nhân dân Việt Nam tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại, sẵn sàng bảo
vệ Tổ quốc trong mọi tình huống.
(nguồn
lyluanchinhtri.vn)
Ngày
nhận bài: 16-02-2025; Ngày bình duyệt: 19-02-2025; Ngày duyệt đăng: 3-3-2025.
Email
tác giả: hotulsd@mta.edu.vn
(1) Báo Quân đội nhân dân: Dấu ấn công
tác quân sự, quốc phòng năm 2024, https://media.qdnd.vn, ngày đăng:
26-12-2024.
(2), (6) Hồ Chí Minh: Toàn tập,
t.13, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.69, 167.
(3) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021,
tr.231, 167.
(4), (5) Hồ Chí Minh: Toàn
tập, t.6, Sđd, tr.208, 360-361.