Từ khóa: Bước ngoặt, dân
tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam, lịch sử.
1. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời - chấm dứt sự khủng hoảng
về đường lối và giai cấp lãnh đạo cách mạng Việt Nam
Sau
khi hoàn tất quá trình vũ trang xâm lược, thực dân Pháp thiết lập nền thống trị
ở Việt Nam. Việt Nam từ quốc gia phong kiến độc lập, trở
thành nước thuộc địa nửa phong kiến. Chính sách khai thác thuộc địa chuyên
nghiệp và dã man, xảo quyệt của thực dân Pháp đã tác động mạnh vào nền chính
trị, xã hội Việt Nam. Mâu thuẫn dân tộc (giữa dân tộc Việt Nam
với thực dân Pháp) và mâu thuẫn giai cấp (giữa nông dân với
địa chủ) trở nên gay gắt và đặt ra cho cách mạng Việt Nam hai
nhiệm vụ bức thiết là giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp.
Trong bối cảnh đó, với truyền thống và tinh thần yêu nước nồng nàn, nhiều đại
biểu của các giai tầng đã tự nguyện đứng lên tập hợp lực lượng để chống thực
dân Pháp, thực hiện giải phóng dân tộc. Tiêu biểu phải kể đến
Phong trào Cần Vương do Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết phát động,
khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám, khởi nghĩa Yên Bái của
Nguyễn Thái Học, phong trào dân chủ tư sản của Phan Bội Châu, Phan
Chu Trinh...Các phong trào đã thu hút nhiều lực lượng, giai
tầng tham gia với nhiều xu hướng khác nhau, điển hình là xu hướng phong kiến và
xu hướng dân chủ tư sản. Nhưng các phong trào này đều có đặc điểm chung
là: Tự phát, thiếu tổ chức và không thể
giải quyết song hành hai yêu cầu lịch sử Việt Nam đặt ra là giải phóng dân
tộc và giải phóng giai cấp. Sự thất bại đồng
loạt của các phong trào yêu nước ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu XX thực
chất là cuộc khủng hoảng về đường lối và giai cấp lãnh đạo cách
mạng. Lịch sử Việt Nam đang chờ đón một xu hướng cách mạng mới, một
giai cấp mới đủ tầm để đại diện cho lợi ích, khát vọng
của dân tộc, của nhân dân, nhất là nhân dân lao động.
Với hướng đi và cách đi tìm đường cứu nước độc đáo, với
nhận thức sâu sắc về đặc điểm, nhiệm vụ cấp bách của cách
mạng Việt Nam và
xu thế thời đại... lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã lựa chọn con đường gắn cách mạng
Việt Nam với cách mạng vô sản thế giới. Tháng 7-1920, sau khi tiếp cận được “Sơ thảo
lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa" của
V.I.Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định: “Muốn cứu nước và
giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”[1].
Từ đây, Người
bắt đầu tiến hành truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam bằng nhiều
phương pháp sáng tạo và hiệu quả. Chủ nghĩa Mác - Lênin đến với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước Việt Nam đã làm chuyển biến về “chất” các
phong trào này. Từ trào lưu đấu tranh với nhiều lập trường, xu hướng khác nhau
đã căn bản chuyển sang lập trường và xu
hướng vô sản. Nhiều tổ chức cộng sản ra đời tại Việt Nam, tiêu biểu là Đông
Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn.
Được sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản, sự nỗ lực lớn của lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc và các chiến sĩ cách mạng tiền bối, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
(2-1930) trên cơ sở hợp nhất ba tổ chức cộng sản tiêu biểu trên. Đảng Cộng sản
Việt Nam được xác định
là lực lượng tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam. Ngay sau khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã định hình Cương
lĩnh Chính
trị đầu tiên của Đảng. Cương lĩnh định hình rõ nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là: "tiến hành tư sản dân quyền cách mạng, thổ địa cách
mạng, để đi tới xã hội cộng sản"[2]. Về lực lượng cách mạng, Cương lĩnh xác định: công
nhân và nông dân là nòng cốt nhưng mở rộng mặt trận đại đoàn kết toàn dân tộc,
mẫu số chung là tinh thần yêu nước... Từ đây, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là
nhiệm vụ chiến lược xuyên suốt của cách mạng Việt Nam. Đại đoàn
kết toàn dân tộc, trong đó liên minh công - nông là nòng cốt đã trở thành nguồn
cội sức mạnh của cách mạng Việt Nam. Cương
lĩnh là sản phẩm điển hình của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào
điều kiện lịch sử Việt Nam.
Sự
ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh Chính trị đầu tiên của Đảng là
sự kiện lịch sử đặc biệt - chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối, về giai
cấp lãnh đạo cách mạng Việt Nam và mở đầu cho những thắng lợi vĩ đại của dân
tộc ta trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH).
2. Thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 - mở ra kỷ nguyên mới cho lịch sử dân tộc
Ngay sau khi ra đời,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã phát động được phong trào cách mạng lớn mạnh trên
phạm vi toàn quốc (Cao trào 1930-1931 và đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh). Đây
cũng là thời điểm lịch sử đầu tiên Đảng thể hiện vai trò lãnh đạo trong thực
tiễn với cách mạng Việt Nam. Do đó, việc lực chọn phương pháp cách mạng theo
hướng vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, sự chỉ đạo của Quốc tế
Cộng sản vào điều kiện cụ thể của Việt Nam đã thực sự là cuộc đấu tranh
tư duy diễn ra mạnh mẽ trong nội bộ Đảng. Sự ra đời của Luận cương
Chính trị tháng 10 năm 1930 thay thế Cương lĩnh chính trị đầu tiên (2-1930);
tình trạng “tả khuynh” của phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh khi đề
cao và thực hiện các nhiệm vụ đấu tranh giai cấp trong bối cảnh nhiệm vụ giải
phóng dân tộc chưa được giải quyết; việc co cụm lực lượng cách mạng chỉ gồm
công nhân và nông dân và thực hiện khẩu hiệu: “trí, phú, địa, hào đào tận gốc
trốc tận rễ”... là minh chứng cụ thể, rõ nét của cuộc đấu tranh tư duy này.
Trải
nghiệm từ những thành công và những khó khăn, thách thức đặt ra với cách mạng,
nhất là thời điểm sau Cao trào cách mạng 1930-1931, cùng với sự nhạy bén trong
nhận diện tình hình thế giới và những yêu cầu mới đặt ra với cách mạng, cuộc
Vận động dân sinh dân chủ (1936 - 1939) đã đánh dấu bước chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng đầu tiên của Đảng. Coi trọng
thực tiễn, điều chỉnh đường lối cho phù hợp và phục vụ thực tiễn cách mạng là
giá trị mà Đảng đã sớm định hình trong những năm đầu lãnh đạo sự nghiệp giải
phóng dân tộc. Trên tinh thần đó, sự chuyển hướng và hoàn chỉnh chuyển hướng
chỉ đạo cách mạng từ Hội Nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (11-1939) và Hội
Nghị Trung ương lần thứ VIII (5-1941) đánh dấu bước phát triển vượt trội về tư
duy lý luận, thể hiện rõ tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng trong
lãnh đạo cách mạng Việt Nam: “Trong lúc này nếu không
giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi
được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc,
thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền
lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”[3]. Giải
phóng dân tộc được xác định là nhiệm vụ hàng đầu, xây dựng lực lượng cách mạng
mà nòng cốt là liên minh công - nông nhưng mở rộng mặt trận đại đoàn kết toàn
dân tộc... đánh dấu sự thành công của quá trình đấu tranh tư duy trong hình
thành con đường giải phóng dân tộc phù hợp với cách mạng Việt Nam...
Những
thành công lớn của Đảng trong lãnh đạo “tạo lực, lập thế, tranh thời”,
đặc biệt là nghệ thuật lãnh đạo chớp thời cơ của Đảng đã góp phần quyết định
tạo nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám (1945). Thắng lợi này đã ghi mốc son
quan trọng: “lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và
nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm
chính quyền toàn quốc”[4]. Cách mạng Tháng Tám
thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời đã mở ra kỷ nguyên mới cho
lịch sử dân tộc. Từ đây, Đảng có chính quyền để thực thi các nhiệm vụ cách mạng
của chính thể mới vì độc lập dân tộc, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân.
3. Thắng lợi của các
cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, đưa đất nước bước sang thời kỳ hòa bình,
thống nhất, quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Con đường giải phóng dân
tộc phù hợp với điều kiện của Việt Nam được hình thành trong thời kỳ 1930-1945
đã tạo nền móng cho sự ra đời, phát triển đầy sáng tạo của đường lối Kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954) và Kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước (1954-1975). Nguyên tắc hàng đầu của quá trình này là: Trung thành
với chủ nghĩa Mác - Lênin, với con đường cách mạng vô sản nhưng luôn phát huy
tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo trong vận dụng lý luận sao cho phù hợp với
điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam.
Cách mạng Tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản
Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Xét về lý
luận, đến thời điểm này, cách mạng Việt Nam đã hoàn tất chặng đường cách mạng
dân tộc dân chủ bởi đã hội đủ những điều kiện cơ bản như: Độc lập dân tộc, Đảng
có chính quyền cách mạng... và chặng đường tiếp theo sẽ là cách mạng xã hội chủ
nghĩa (XHCN). Nhưng xuất phát từ thực tiễn, đặc biệt là tình thế “ngàn cân treo
sợi tóc” của Việt Nam sau năm 1945, trong Chỉ thị “Kháng chiến, kiến quốc”,
Đảng đã xác định: Cách mạng Việt
Nam vẫn tiếp tục là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, giải phóng dân tộc là nhiệm
vụ hàng đầu. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu cao khẩu hiệu “Tổ quốc trên
hết”; “Dân tộc trên hết”... Đây là sự kiện tiếp tục thể hiện rõ tinh
thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng trong vận dụng lý luận vào thực tiễn cách
mạng Việt Nam. Tinh thần này lại được phát huy cao độ trong giai đoạn Đảng lãnh
đạo đấu tranh bảo vệ chính quyền (1945-1946). Với nhiều phương thức sáng tạo,
đầy tâm huyết Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thành công xuất sắc trong tập
hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để đưa cách mạng thoát khỏi
tình thế hiểm nghèo. Đảng cùng nhân dân thực hiện thắng lợi nhiều chương trình
lớn như: Diệt “giặc đói”, diệt “giặc dốt”, trong thực hiện phương châm “dĩ bất
biến, ứng vạn biến” với thù trong, giặc ngoài... để giữ vững chính
quyền cách mạng và thành quả của Cách mạng Tháng Tám...
Khi
đất nước đã “phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng thực dân Pháp
càng lấn tới”5, khi cơ hội hòa bình cuối cùng không còn nữa, Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bản lĩnh, sáng tạo lãnh đạo cách mạng Việt Nam bước vào
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Với tinh thần: “Chúng ta thà hy
sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”[5][6]; “Ta phải hy sinh đến
giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước”[7], Đảng đã đồng hành cùng
dân tộc tiến hành cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ kháng chiến,
tự lực cánh sinh là chính.
Với
tinh thần “quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh” của nhân dân Việt Nam, trong những
năm tháng đầu tiên toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp, với uy tín và sự
sáng tạo lớn của Đảng trong lãnh đạo kháng chiến, sức mạnh của chiến tranh nhân
dân Việt Nam đã được phát huy cao độ. Sức mạnh đó đã tạo ra những chiến thắng
toàn diện trên cả hai phương diện: Kháng chiến và kiến quốc, đỉnh cao là Chiến
thắng Điện Biên Phủ (1954). Chiến thắng này tạo ra bước chuyển lớn của lịch sử
dân tộc Việt Nam và là chiến thắng chấn động địa cầu: “lần đầu tiên trong lịch
sử thế giới, một đế quốc hùng mạnh đã bị nhân dân một nước thuộc địa đánh cho
tan tành tả tơi, và phải cút về nước”[8]. Chiến thắng của nhân
dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) đã mở đầu
cho thắng lợi của các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc trong cuộc chiến chống chủ
nghĩa thực dân kiểu cũ trên phạm vi toàn thế giới.
Hiệp định Giơnevơ được
ký kết (1954), miền Bắc giải phóng, đi lên CNXH; miền Nam tiếp tục thực hiện
nhiệm vụ của cách mạng dân tộc dân chủ. Trong bối cảnh đó, Đảng đã thể hiện rõ
bản lĩnh, tinh thần chủ động, sáng tạo trong kết hợp mục tiêu độc lập dân tộc
và CNXH gắn với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Miền Bắc đi lên CNXH, làm hậu
phương, giữ vị trí quyết định nhất đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân
tộc, thống nhất đất nước; miền Nam tiếp tục hoàn thành cách mạng dân tộc dân
chủ, giữ vị trí quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân
tộc, thống nhất đất nước. Sáng tạo này của Đảng trong xử lý mối quan hệ giữa
độc lập dân tộc và CNXH ở hai miền Nam - Bắc là đóng góp mới đối với kho tàng
lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, là quyết định chưa có trong tiền lệ lịch sử.
Công
cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc được Đảng xác định: “Nhiệm vụ trước mắt của toàn
dân ta là ra sức xây dựng và củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc tiến dần lên chủ
nghĩa xã hội, đồng thời đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà”[9]. Trên cơ sở mục tiêu
chiến lược đó, mô hình CNXH ở miền Bắc đã được thiết kế, xây dựng với những nét
đặc thù gắn với hai mục tiêu chiến lược: Xây dựng những tiền đề cơ sở
vật chất lâu dài cho CNXH; hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ là hậu phương lớn huy
động sức người, sức của cho miền Nam.
Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, nhân dân miền Bắc triệu người như một hăng hái phấn đấu, cống hiến với
mục tiêu “tất cả cho miền Nam ruột thịt”, “Mỗi người làm việc bằng hai vì miền
Nam ruột thịt”... Phong trào thi đua yêu nước đã lan tỏa tới mọi giới, mọi
ngành: “Sóng Duyên Hải, gió Đại Phong; cờ Ba Nhất, tiếng trống Bắc Lý”; thanh
niên với phong trào “ba sẵn sàng”, phụ nữ với phong trào “ba đảm đang”; nông
dân với phong trào “Tay cày, tay súng” và nhân rộng những cánh đồng năm tấn;
công nhân với phong trào “tay búa, tay súng”... Những phong trào thi đua này đã
tạo thành hào khí của dân tộc Việt Nam. Nhân dân đã đồng hành cùng Đảng vì
tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc: Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước,
non sông thu về một mối... Dưới sự lãnh đạo của Đảng, miền Bắc không chỉ hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ là hậu phương lớn, mà những chiến thắng của miền Bắc
trong chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, góp phần tạo ra những bước
ngoặt quan trọng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam.
Nhận
được sự giúp đỡ, động viên cả vật chất và tinh thần, sức người, sức của của
miền Bắc, với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”[10], “đánh cho Mỹ cút, đánh
cho ngụy nhào”[11], nhân dân miền Nam dưới
sự lãnh đạo của Đảng đã liên tiếp đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế
quốc Mỹ: Chiến tranh đặc biệt (1961-1965); Chiến tranh cục bộ (1965-1968); Việt
Nam hóa chiến tranh (1968-1972)... Việc Mỹ phải ký Hiệp định Pari (1973) đã đưa
cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam sang giai đoạn mới và tạo tiền đề cho
thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam,
thống nhất đất nước vào mùa Xuân năm 1975.
Chiến
thắng 30-4-1975 đã kết thúc 21 năm kháng chiến trường kỳ của dân tộc, Việt Nam
đã hoàn thành những nhiệm vụ của cách mạng dân tộc dân chủ. Chiến thắng này đã
mở ra một thời kỳ mới - thời kỳ độc lập, hòa bình, thống nhất đi lên
chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Khi đánh giá về ý nghĩa lịch sử
của cuộc Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IV (1976) của Đảng đã nhận định: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng những
thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi
mãi được ghi vào lịch sử dân tộc như một trang chói lọi nhất, là biểu tượng
sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con
người, đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, mang
tầm vóc quốc tế và thời đại sâu sắc”[12].
4. Đảng Cộng sản Việt
Nam với quá trình đổi mới toàn diện, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế
Sau năm 1975, đất nước
bước vào thời kỳ mới, quá độ đi lên CNXH. Do duy trì quá lâu cơ chế kế hoạch
hóa, tập trung, bao cấp; cơ cấu đầu tư
bất hợp lý... đất nước rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội. Tìm hướng
đi mới, đặc biệt là thiết kế mô hình, bước
đi CNXH sao cho phù hợp đối với điều kiện cụ thể của Việt Nam là yêu cầu bức
thiết mà lịch sử đặt ra đối với Đảng Cộng sản Việt Nam
với tư cách là đảng cầm quyền.
Với bản lĩnh của một
Đảng có bề dày truyền thống, luôn đặt lợi ích nhân dân, dân tộc lên trên hết,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước đổi mới tư duy, tiến hành công cuộc đổi mới
từng phần (1979-1985). Đây là quá trình tạo dựng tiền đề căn bản cho bước
chuyển biến căn bản trong tư duy lý luận của Đảng về con đường và bước đi của
CNXH trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam được bắt đầu từ Đại hội VI (12-1986).
Tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12-1986), trên
tinh thần trách nhiệm của Đảng cầm quyền với vận mệnh của dân tộc và hạnh phúc
của nhân dân, ngay trong phần mở đầu của Báo cáo Chính trị, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã xác định rõ phương châm tiến hành Đại
hội VI là: “Thái độ của Đảng ta trong việc
đánh giá tình hình là nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự
thật”[13]. Điều
này đã thể hiện sự nghiêm
khắc của Đảng khi nhìn thẳng vào hiện thực kinh tế - xã hội của đất nước cũng
như những sai lầm, hạn chế trong quản
lý phát triển kinh tế - xã hội trước năm 1986. Sự thẳng thắn, nghiêm
túc và đầy tâm huyết đó của Đảng tại Đại hội VI đã tạo những giá trị lịch sử
của Đại hội trong tiến trình đổi mới toàn diện đất nước. Đây còn là bài học
kinh nghiệm có ý nghĩa cho Đảng Cộng sản Việt Nam với tư cách là đảng cầm quyền
trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong mọi giai
đoạn. Chỉ có nhìn thẳng sự thật, nói rõ sự thật, công tâm trong đánh giá tình
hình, tránh những biểu hiện phô trương, thành tích, giấu giếm khuyết điểm...
thì Đảng mới thực sự tỏa sáng về tư duy và trí tuệ trong xây dựng cũng như chỉ
đạo đưa đường lối vào thực tiễn.
Những
năm đầu đưa đường lối Đại hội VI vào cuộc sống, đất nước gặp muôn vàn khó khăn
tưởng chừng khó vượt qua. Khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, lạm phát phi
mã lên đến 774,7%, đời sống mọi tầng lớp nhân dân khó khăn, thiếu thốn, nhiều
vấn đề tiêu cực nảy sinh trong xã hội... Những
khó khăn trong nước ngày càng nhân lên khi tình hình thế giới có nhiều diễn
biến phức tạp, tác động không nhỏ
vào Việt Nam. Cuộc khủng hoảng có tính hệ thống và sự sụp đổ mô
hình CNXH ở Liên Xô và Đông Âu có thể coi là cơn “địa chấn” lớn
làm rung chuyển thế giới và những quốc gia còn lại của hệ thống XHCN,
trong đó có Việt Nam. Chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua thác ghềnh,
giữ vững định hướng XHCN là thách thức đặt ra đối với Đảng Cộng sản Việt Nam
giai đoạn (1986-1991). Tiến hành đổi mới toàn diện, trọng tâm là đổi mới kinh
tế; đổi mới kinh tế đi đôi với ổn định chính trị, giữ vững định hướng XHCN;
kiềm chế lạm phát; xóa bỏ triệt để cơ chế kế hoạch hóa, tập trung quan liêu,
bao cấp; đổi mới đường lối đối ngoại để từng bước phá thế bao vây, cấm
vận về ngoại giao... là những giải pháp thể hiện rõ bản lĩnh, trí tuệ và tầm
nhìn của Đảng trong thời điểm cách mạng đối diện với nhiều khó khăn, thách
thức. Sự ra đời của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên
CNXH tại Đại hội VII (1991) đánh dấu bước tiến mới trong đổi mới tư duy lý luận
về mô hình và bước đi của CNXH ở Việt Nam. Từ đây, Việt Nam sẽ thiết kế, xây
dựng mô hình CNXH dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin nhưng phù hợp với
điều kiện cụ thể của Việt Nam và xu thế chung... Đất nước thoát ra khỏi khủng
hoảng kinh tế - xã hội, hội đủ những điều kiện cơ bản để bước sang thời kỳ mới:
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa... là thành tựu nổi bật của Việt Nam
trong 10 năm đầu đổi mới toàn diện đất nước (1986-1996) dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Từ
năm 1996 đến nay, công cuộc đổi mới toàn
diện và sự nghiệp CNH, HĐH đất nước được đẩy
mạnh toàn diện. Đất nước đã đạt được thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử.
Tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh của Việt Nam không ngừng tăng lên, đời
sống của các tầng lớp nhân dân được cải thiện, quan
hệ đối ngoại được mở rộng, thế và lực của đất nước không ngừng được nâng cao trên
trường quốc tế... Đó là kết quả phấn đấu không ngừng
của Đảng và nhân dân Việt Nam trong vượt qua khó khăn, thử thách, khai thác và phát huy
tối đa nguồn nội lực và ngoại lực. Trong hơn
30 năm đổi mới đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp
tục thể hiện rõ bản lĩnh chính trị của một
đảng tiên phong, trí tuệ, luôn chủ động, sáng tạo trong đề ra đường lối và lãnh
đạo thực hiện đổi mới vì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH.
Chín mươi năm
qua dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (1930-2020), dân tộc đã đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước.
Những thành tựu mà Đảng và Nhân dân ta đạt được từ năm 1930 đến
nay là sự nối tiếp xứng đáng và đầy tự hào, góp
phần làm rạng rỡ thêm những trang sử hào hùng của dân tộc Việt Nam trong lịch
sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước. Tổng kết, giáo dục truyền
thống, nhận diện trách nhiệm của Đảng, của đội ngũ cán bộ, đảng viên đối
với vận mệnh dân tộc; định hình khung giá trị cho mỗi cá
nhân cán bộ, đảng viên tự rèn luyện, phấn đấu sao
cho xứng đáng với truyền thống vẻ vang của Đảng, xứng đáng với niềm tin yêu của
nhân dân... là vấn đề cấp bách đang đặt ra trong
tình hình hiện nay.
Tài liệu tham khảo:
1. Đảng Cộng sản Việt
Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật,
Hà Nội, 1987.
2. Đảng
Cộng sản Việt Nam, Văn
kiện Đảng toàn
tập, Nxb. Chính
trị Quốc gia, Hà
Nội, 2000, tập
7.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện
Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004,
tập 37.
4. Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam những trang
sử vẻ vang (1930-2002), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003.
5. Hồ
Chí Minh toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia
- Sự thật, Hà Nội, 2011, tập: 3, 4, 7, 10, 11, 12, 15.
* Phó
Giáo sư, Tiến sĩ, Giám đốc Học viện Chính trị Khu vực I.
[1] Hồ
Chí Minh: Toàn tập, NXB. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội,
2011, tập 12, tr. 30.
[2] Đảng
Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1998, tập 2, tr. 2.
[3] Đảng
Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đảng toàn
tập, Nxb. Chính
trị Quốc
gia, Hà Nội, 2000, tập
7, tr.113.
[4] Hồ
Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội,
2011, tập 7, tr. 25.
5, [6],
7 Hồ Chí Minh: Sđd, tập
4, tr. 534.
[8] Hồ
Chí Minh: Sđd, tập 11, tr. 398.
[9] Hồ
Chí Minh: Sđd, tập 11, tr. 383.
[10]Hồ
Chí Minh: Sđd, tập 15, tr. 130.
[11]Hồ
Chí Minh: Sđd, tập 15, tr. 532.
[12] Đảng
Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 2004, tập 37, tr. 909.
[13] Đảng
Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb.
Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.12.