Từ
khóa: Chủ quyển biển, đảo; Đảng Cộng sản
Việt Nam; tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh.

Chủ tịch Hồ Chí Minh trồng cây ở bang Bangalore trong chuyến thăm Ấn Độ,
ngày 11-2-1958. (Ảnh: https://www.sggp.org.vn)
Đặt
vấn đề
Trong những năm gần
đây, tình hình Biển Đông có một số chuyển biến tích cực, nhưng vẫn tồn tại yếu
tố bất ổn. Vận dụng tư tưởng
ngoại giao Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo đường lối đối ngoại
bảo vệ chủ quyền biển, đảo đạt được thành công lớn. Bài viết làm rõ một số nội
dung cơ bản trong tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng trong
lãnh đạo bảo vệ chủ quyền biển, đảo hiện nay
1. Một số nội dung cơ
bản trong tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh
Về
mục tiêu ngoại giao: Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Việc gì, cũng vì lợi ích
của dân mà làm”[1]. Người
khẳng định lợi ích quốc gia - dân tộc là vấn đề quan trọng nhất mà toàn thể
nhân dân Việt Nam hướng tới là “độc lập”. Độc lập chính là phương tiện đem lại
quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc cho từng cá nhân trong cộng
đồng, quốc gia Việt Nam. Thực chất mục tiêu “độc lập” trong tư tưởng ngoại giao
Hồ Chí Minh còn gắn liền với toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chủ quyền quốc gia. Bởi
vì, một quốc gia có chủ quyền nghĩa là tự quốc gia đó quyết định cả đối nội,
đối ngoại của đất nước, kể cả việc tìm kiếm sự trợ giúp từ nước ngoài hay
không. Khi Pháp xâm lược Đông Dương nghĩa là xâm phạm đến chủ quyền quốc gia, bóc
lột nhân dân Việt Nam là vi phạm quyền con người. Hồ Chí Minh cùng với nhân dân
Việt Nam kiên quyết giữ gìn độc lập và toàn vẹn lãnh thổ là điều chính đáng.
Theo Hồ Chí Minh, nội hàm của mục tiêu
ngoại giao bao quát, không chỉ dừng lại ở chỗ giành độc lập cho dân tộc, mà còn
bảo vệ các quyền cơ bản của con người. Đây không chỉ là nguyện vọng của riêng
Hồ Chí Minh, mà còn là nguyện vọng chung của toàn thể dân tộc Việt Nam.
Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, mục
tiêu ngoại giao là đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ quốc gia. Đây là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của mỗi quốc gia.
Về
tập hợp và mở rộng lực lượng: Hồ Chí Minh cho rằng “muốn ngoại giao được thắng
lợi là phải biểu dương thực lực”. Thực lực là
sức mạnh bên trong, là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, là sức mạnh về
kinh tế, chính trị, quân sự và văn hoá của đất nước. Muốn thắng lợi trên mặt
trận ngoại giao, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Phải trông ở thực lực. Thực lực
mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái
tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn”[2].
Theo quan điểm Hồ
Chí Minh, Việt Nam “có muôn ngàn sợi dây liên hệ với cuộc đấu tranh chung của
thế giới tiến bộ”, do đó, phải ra sức “tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của
nhân dân yêu chuộng hòa bình ở các nước”[3]; “phải vạch rõ
những phương pháp và những biện pháp của riêng mình”[4], nhưng “muốn người
ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã”[5]. Trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước, Người nhấn mạnh: “Ngoại giao của ta là cốt tranh thủ
nhiều người ủng hộ cuộc đấu tranh chống Mỹ, cứu nước của ta”[6].
Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương đối
ngoại rộng mở, mở rộng lực lượng theo phương châm “thêm bạn, bớt thù”, tránh
đối đầu “không gây thù oán với một ai”; tìm ra những điểm tương đồng, khai thác
mọi khả năng có thể, nhằm tập hợp lực lượng, hình thành mặt trận đoàn kết ủng
hộ Việt Nam theo nhiều tầng, nhiều nấc. Để thực hiện thành công chính sách đối
ngoại rộng mở, tập hợp các lực lượng đoàn kết với Việt Nam, theo Hồ Chí Minh vấn
đề quan trọng hàng đầu là “ngoại giao phải tranh thủ tuyên truyền giải thích”[7], làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ về
Việt Nam, về cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Hồ Chí Minh động
viên toàn dân tộc “phải tin vào sức ta trước hết: Chỉ có nỗ lực mới làm cho
ngoại giao toàn thắng”[8]. Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh vấn đề tranh
thủ và mở rộng lực lượng trong các sách lược ngoại giao: “Chúng ta phải hết sức
khôn khéo. Đứng trước bất kỳ một kẻ thù nào, người cách mạng cũng phải rõ chúng
là ai? Mạnh, yếu chỗ nào? Tranh thủ ai và cô lập ai?”[9]. Ở mỗi sách lược cụ thể, với mỗi chủ thể khác nhau, Hồ Chí
Minh đưa ra quan điểm tập hợp lực lượng cũng khác nhau để dẫn dắt hoạt động
ngoại giao Việt Nam đi đúng hướng.
Rõ ràng rằng, việc tập hợp và mở rộng
lực lượng ngoại giao của Hồ Chí Minh không chỉ vì mục tiêu độc lập cho dân tộc,
tự do cho nhân dân, mà còn vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội, từ đó có
những bước đi đúng đắn, xử lý linh hoạt, mềm dẻo về sách lược trong quan hệ với các nước. Đồng thời, đẩy
mạnh quá trình tìm kiếm đồng minh, mở rộng quan hệ quốc tế trong quá trình tập
hợp lực lượng cách mạng, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới tiến bộ vào
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Khéo léo
kết hợp hài hòa sức mạnh dân tộc và thời đại trong quan hệ ngoại giao với các nước, tập hợp và mở rộng lực lượng, phát
huy tối đa tiềm năng của đất nước đánh bại nhiều âm mưu, thủ đoạn của các thế
lực đế quốc.
Về phương châm, phương pháp và nghệ thuật
ngoại giao:
Thứ nhất, giữ vững tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo. Theo Hồ Chí
Minh, “Độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng tôi,
không có sự can thiệp ở ngoài vào”[10]. Quan hệ quốc tế luôn phải giữ vững phong cách ngoại giao
độc lập, tự chủ và sáng tạo. Người coi độc lập, tự chủ tự cường là “cái gốc”,
là “điểm mấu chốt” trong việc hoạch định
chính sách đối ngoại và hoạt động ngoại giao. Hồ Chí Minh xác định: “Mục đích
bất di bất dịch của ta vẫn là hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ. Nguyên
tắc của ta thì phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì linh hoạt. Các công
tác phải phối hợp và liên hệ với nhau, bộ phận phối hợp với toàn cục”[11].
Thứ hai, phương châm “thêm bạn, bớt thù”.Trong quan hệ với các nước, Hồ Chí Minh thực hiện phương châm “thêm bạn, bớt thù”, khéo léo, linh
hoạt trong xử lý các mối quan hệ phức tạp, đan xen lợi ích giữa các cường quốc.
Các quyền dân tộc cơ bản (độc lập, tự do, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ) được
Hồ Chí Minh đặt lên trên hết và xem đó là cơ sở để xác định mâu thuẫn trong xã
hội Việt Nam. “Muốn làm cách mạng thắng lợi thì phải phân biệt rõ ai là bạn ai
là thù, phải thực hiện thêm bầu bạn, bớt kẻ thù”[12]. Đây là nguyên tắc nhất quán trong mọi chính sách đối ngoại
và hoạt động ngoại giao của một quốc gia nhỏ lại đương đầu với các kẻ thù mạnh
và thâm độc. Bên cạnh đó, phương pháp “thêm bạn, bớt thù” còn hướng tới mục
tiêu lớn hơn là góp phần tập hợp lực lượng cho cách mạng Việt Nam.
Thứ ba, phương pháp “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Hồ Chí Minh nhắc
nhở cán bộ, đảng viên làm công tác ngoại
giao cần khéo léo, tài tình sử dụng phương pháp “dĩ bất biến, ứng vạn biến”
trong quan hệ ngoại giao với các nước lớn. Cái “bất biến” ở đây chính là độc
lập cho dân tộc, thống nhất cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Đó
chính là ham muốn tột bậc của Người, là mục tiêu cao nhất mà Người dành cả cuộc
đời mình để hoàn thành. Người từng nói: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ
quốc tôi, đấy là tất cả những gì tôi muốn, tất cả những điều tôi hiểu!”[13]. Người nhấn mạnh: “Nhân dân chúng tôi
thành thật mong muốn hòa bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến
đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ
quốc và độc lập cho đất nước”[14]. Đối với Người, độc lập, tự do chính là
“giá trị tuyệt đỉnh… của mọi giá trị không thể đổi chác, mua bán dù trong bất
cứ hoàn cảnh và áp lực nào”[15]. Như vậy, độc lập, tự do là cái “bất
biến”, không bao giờ thay đổi trong quan hệ ngoại giao với các nước lớn. Tuy
nhiên, để đạt được cái “bất biến” cần phải “ứng vạn biến” vào từng hoàn cảnh,
điều kiện cụ thể của đất nước.
“Ứng vạn biến” trong hoạt động ngoại giao
là phải linh hoạt kết hợp hài hòa giữa chiến lược và sách lược, giữa cương và
nhu, giữa chủ động và sáng tạo; nhận thức đúng về thế và lực của chủ thể, của
quốc gia và của đối tượng, cái thuận và nghịch của tình hình thế giới trong
từng giai đoạn và thời điểm cụ thể; đồng thời, biết điểm dừng đúng thời điểm,
tránh sự tổn hại cái “bất biến”, nhất là luôn đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên
trước hết, trên hết. Để thực hiện tốt điều đó, theo Hồ Chí Minh phải cụ thể
bằng đường hướng ngoại giao, từ đó phát huy bản lĩnh, trí tuệ, sự bình tĩnh,
sáng suốt và tự tin để thực hiện đường hướng cách mạng. Hồ Chí Minh nhấn mạnh:
“Đi đường mà biết rõ đường, thì đi thoải mái và thấy như đường ngắn lại. Đi
đường mà không biết trước những chặng phải đi qua, thì mò mẫm, không rõ xa gần,
chỉ thấy đường dài thăm thẳm, đi chưa được mấy đã thấy mệt”[16].
Thứ tư, phương pháp dự báo và nắm đúng thời cơ. Trong quá trình lãnh
đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng quan sát, phân tích và nhận
thức những diễn biến quốc tế, khu vực Thái Bình Dương và Đông Dương; đồng thời,
chú trọng đến việc tiếp cận với nhiều nguồn thông tin, hệ thống hóa các sự
kiện, nghiên cứu và suy luận. Nhờ đó, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nắm
được xu thế thời cuộc, chiều hướng phát triển của những diễn biến chủ yếu trong
quan hệ quốc tế và trong so sánh lực lượng toàn cầu... đang tác động đến cục
diện chiến tranh của nhân dân Việt Nam, từ đó có thể dự báo và xác định đúng,
kịp thời thời cơ cách mạng.
Thứ năm, kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự và
ngoại giao, vừa đánh vừa đàm, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, đấu tranh ngoại giao phải kết hợp với đấu tranh
quân sự, “vừa đánh vừa đàm”, trong đó “đánh là chủ yếu, đàm là hỗ trợ”. Hồ Chí
Minh nói: “đánh thắng lợi thì ngoại giao thắng nhiều. Không cứ gì ở ta mà ở
nước nào cũng vậy. Cố nhiên ngoại giao là rất quan trọng, nhưng cái vốn chính
là mình phải đánh thắng và mình phải có sức mạnh thì ngoại giao sẽ thắng”[17].

Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp đoàn chuyên gia Liên Xô sang giúp
đỡ công tác chuyên môn cho Ủy ban Kế hoạch Nhà nước tại Hà Nội, ngày 22-3-1960.
(Ảnh tư liệu: tuyengiao.vn)
Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh bao gồm một số nội dung cơ bản sau: Mục tiêu ngoại giao (giành và bảo vệ các
quyền dân tộc cơ bản; bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ quốc gia; mở rộng quan hệ quốc tế); tập hợp và mở rộng lực lượng; phương
châm, phương pháp và nghệ thuật ngoại giao (giữ vững tư duy độc lập, tự chủ và
sáng tạo; ngoại giao phù hợp với điều
kiện cụ thể; phương châm “thêm bạn, bớt thù”; phương pháp “dĩ bất biến, ứng vạn
biến”; phương pháp dự báo và nắm đúng
thời cơ; vừa đánh vừa đàm, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng…).
2. Đảng Cộng sản Việt
Nam vận dụng tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh trong lãnh đạo bảo vệ chủ quyền
biển, đảo hiện nay
Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh là những
nội dung vừa có những đóng góp to lớn về lý luận, vừa có giá trị thực tiễn, góp
phần bổ sung cho hệ thống lý luận quan hệ quốc tế, đồng thời là tài sản vô giá
của toàn thể dân tộc Việt Nam trong việc xử lý các mối quan hệ quốc tế.Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh có giá trị
sâu sắc, Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng sáng tạo
trong lãnh đạo bảo vệ chủ quyền biển, đảo hiện nay.
Thứ nhất, hệ thống quan điểm ngoại giao Hồ Chí Minh là cơ sở lý
luận cho Đảng hoạch định đường lối, chủ trương bảo vệ chủ quyền biển, đảo
Nội dung bao trùm và xuyên suốt tư tưởng ngoại giao Hồ Chí
Minh chính là độc lập, tự chủ gắn với đoàn kết và tranh thủ quốc tế. Đây là nội
dung định hướng cho Đảng và Nhà nước Việt Nam trong lãnh đạo, hoạch định đường
lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng quan hệ quốc tế. Bên cạnh đó, những tư
tưởng về nguyên tắc, mục tiêu ngoại giao của Người luôn là tài sản tinh thần quý
giá, đóng góp quan trọng vào kho tàng lý luận về ngoại giao Việt Nam hiện đại.
Ngoài ra, với phương pháp và nghệ thuật ngoại giao độc đáo, linh hoạt, mềm dẻo,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khéo léo xử lý quan hệ giữa Việt Nam với các nước lớn,
tránh đụng đầu, xung đột với các bên trong tranh chấp ở Biển Đông. Trong nhiều
trường hợp, Người đã “biến đại sự thành tiểu sự, biến tiểu sự thành vô sự” và
sử dụng ngoại giao như một “công cụ” để biến nguy thành an, đưa con thuyền đất
nước vượt qua mọi thác ghềnh hiểm nguy. Đặc biệt, nghệ thuật “dĩ bất biến, ứng
vạn biến”, dự báo và nắm thời cơ được Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng và nâng lên
một tầm cao chiến lược mới, trở thành lý luận ngoại giao của Đảng, Nhà nước
Việt Nam.
Hơn nữa, tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh cũng đóng vai trò là cơ sở, là nền tảng và kim chỉ nam cho
Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình hoạch định đường lối, chính sách đối
ngoại trong thời kỳ mới. Thấm nhuần tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định đúng đắn vị
trí, vai trò quan trọng của công tác đối ngoại trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, coi đây là một nội dung quan trọng trong hoạt động chính trị quốc
tế của Đảng. Trong thời kỳ đổi mới, Việt Nam triển khai tích cực công tác ngoại
giao theo tư tưởng Hồ Chí Minh và thu được những thành công lớn: quan hệ
đối ngoại của đất nước được mở rộng, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế
không ngừng được nâng cao; bảo vệ được chủ quyền biển, đảo Tổ quốc. Tiếp tục sự
nghiệp ngoại giao của Người, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng
khẳng định: “Tư tưởng của Người, cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho Đảng và cách mạng Việt Nam, là tài sản tinh thần vô cùng
to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng
của Đảng và nhân dân ta”[18].
Thực chất, công cuộc đấu tranh bảo vệ
chủ quyền biển, đảo hiện nay là việc Đảng Cộng sản Việt Nam tập trung giải
quyết đúng đắn mối quan hệ giữa bảo vệ
chủ quyền quốc gia và đảm bảo môi trường hòa bình, ổn định. Đây là mối
quan hệ biện chứng, có vị trí then chốt trong việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo
Tổ quốc. Vận dụng tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa XII (10 - 2019) xác định: Kiên
quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo quốc gia trên cơ sở luật
pháp quốc tế.Để thực hiện
hiệu quả chủ trương này, Đảng đề ra một số phương hướng, giải pháp trọng tâm
sau:
i) Tăng cường xây dựng và phát triển sức mạnh tổng hợp quốc gia.
ii) Vừachủ động và tích cực hội nhập quốc tế, nâng cao uy tín, vị
thế của Việt Nam trên trường quốc tế, vừa đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Về hợp tác, hội nhập: Từ chỗ phân định rạch ròi theo khái niệm “địch - ta”,
Đảng đã chuyển sang cách tiếp cận biện chứng hơn theo quan niệm “đối tác, đối tượng”.
Từ phương châm “thêm bạn, bớt thù” trong tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã phát triển thành chủ trương hội nhập, đa dạng hóa, đa
phương hóa quan hệ quốc tế và từng bước hội nhập quốc tế. Trong đó “chú trọng
phát triển mối quan hệ hợp tác, hữu nghị, truyền thống với các nước láng giềng,
thúc đẩy quan hệ với các đối tác lớn, đối tác quan trọng. Chủ động, tích cực và
có trách nhiệm cùng các nước ASEAN xây dựng Cộng đồng vững mạnh”[19].
Song song với hoạt động hội nhập quốc tế, đa dạng hóa, đa
phương hóa quan hệ quốc tế, Đảng chủ trương đấu tranh bảo vệ lợi ích quốc gia,
dân tộc, trong đó có chủ quyền biển, đảo. Đại hội XII của Đảng xác định: “Kiên
quyết đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp công việc nội bộ,
xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và
ổn định chính trị của đất nước. Tiếp tục hoàn thành việc phân định biên giới
trên bộ, thúc đẩy giải quyết các vấn đề trên biển trên cơ sở những nguyên tắc
cơ bản của luật pháp quốc tế, Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 và
quy tắc ứng xử của khu vực”[20].
Vận dụng tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh có ý nghĩa quan trọng, định hướng nhận thức và tư duy đối
ngoại của Việt Nam trong tình hình mới. Hơn nữa, những quan điểm về ngoại giao
của Người có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong công cuộc đấu tranh bảo vệ chủ
quyền biển, đảo hiện nay.
Thứ hai, những nội dung trong tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh tiếp tục soi sáng cho
hoạt động ngoại giao Việt Nam trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo hiện nay
Tiếp thu và phát triển tư tưởng ngoại giao của Hồ Chí Minh,
ngày nay Việt Nam nỗ lực xử lý linh hoạt, khéo léo, mềm dẻo, tránh xung đột,
đối đầu trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Trên cơ sở
những ràng buộc, đan xen phức tạp về lợi ích giữa các quốc gia, Việt Nam lấy
lợi ích quốc gia, dân tộc lên hàng đầu trong quan hệ quốc tế, không phương hại
đến lợi ích chân chính của các quốc gia, dân tộc khác, tránh đối đầu, thực hiện
chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ; không tham gia liên minh quân sự; không
liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân
sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực
hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong giải quyết vấn đề Biển Đông. Đồng thời tăng
cường hợp tác quốc phòng với các nước để nâng cao khả năng bảo vệ chủ quyền
biển, đảo; tăng cường lực lượng cho lực lượng kiểm ngư, lực lượng bảo vệ biển,
đảo...
Thông qua các kênh song phương và đa phương, trong vấn đề chủ
quyền trên Biển Đông, Việt Nam cố gắng xử lý hết sức cẩn trọng, không làm ảnh
hưởng tiêu cực đến hòa bình, hữu nghị và hợp tác phát triển. Việt Nam tuyên
truyền, cung cấp những thông tin chính xác và đầy đủ cho các nước và nhân dân
tiến bộ, yêu chuộng hòa bình, trước hết từ ASEAN và các nước có quan hệ tốt với
Việt Nam, từ đó tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các nước, tạo thế cho cuộc
đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Bên cạnh đó, Việt Nam còn phối hợp với
các nước ASEAN khác có cùng lợi ích để thúc đẩy giải quyết vấn đề Biển Đông.
Đặc biệt, trong vai trò Chủ tịch ASEAN 2020 và Uỷ viên không thường trực Hội
đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021, Việt Nam chủ động, tích cực hội
nhập quốc tế, tăng cường xúc tiến đàm phán và thúc đẩy các bên ở Biển Đông
thông qua Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) nhằm tạo ra tính ràng buộc về mặt
pháp lý, từ đó có nền tảng trong việc quản lý tranh chấp ở Biển Đông, thiết lập
trật tự dựa trên luật pháp và duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực Đông Nam
Á. Trong quan hệ song phương, Việt Nam cố gắng đàm phán với Trung Quốc nhằm tìm
kiếm giải pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế. Trong khi chờ đạt được
một giải pháp cơ bản lâu dài cho vấn đề Biển Đông, Việt Nam nỗ lực giữ ổn định
tình hình ở Biển Đông; tuân thủ luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS 1982;
nghiêm chỉnh thực hiện DOC, tiến tới xây dựng COC giữa ASEAN và Trung Quốc;
tuân thủ thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển
giữa hai nước; Việt Nam ủng hộ và bảo vệ quyền tự do đi lại, an ninh, an toàn
hàng hải và hàng không trên Biển Đông; không có hành động làm phức tạp thêm
tình hình hoặc mở rộng thêm tranh chấp, không quân sự hóa, không có hành động
vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực.
Bên cạnh việc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo, Đảng và
Nhà nước Việt Nam quan tâm đến việc xây dựng và phát triển sức mạnh tổng hợp
quốc gia; thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế. Đến năm 2020, nước Việt Nam chưa bao giờ có được cơ
đồ, tiềm lực, uy tín và vị thế như ngày nay. Từ một nước nhược tiểu, nghèo đói,
ngày nay Việt Nam vươn lên trở thành nước có thu nhập trung bình, đời sống nhân
dân không ngừng được cải thiện, nâng cao, nhiều thành tựu về phát triển kinh tế
- xã hội được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Quan hệ đối ngoại, hội
nhập quốc tế không ngừng rộng mở, hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư được tăng
cường. Việt Nam tham gia hầu hết các tổ chức quốc tế và thiết chế hợp tác kinh
tế đa phương, có vai trò, tiếng nói quan trọng trong khu vực và trên thế giới.
Kết luận
Tóm lại, những luận điểm cơ bản trong tư
tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh thấm sâu vào các hoạt động đối ngoại Việt Nam.
Trong quan hệ với các nước, tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh góp phần định hướng, xác
định chiến lược lâu dài, ổn định trên nguyên tắc giữ vững độc lập, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ, trong đó có chủ quyền biển, đảo. Đặc biệt, trên cơ sở kế thừa và phát triển quan hệ ngoại giao
Hồ Chí Minh với các nước, nhất là quan
hệ với các nước truyền thống, nước láng giềng và nước lớn, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, Việt Nam tiếp tục duy trì và phát triển quan hệ song phương, thiết lập
nền tảng cho mối quan hệ lâu dài, chiến lược, qua đó tuyên truyền đấu tranh bảo
vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc, phân hóa hàng ngũ các chủ thể trong quan hệ quốc
tế, cô lập “đối tượng”, tranh thủ sự ủng hộ của “đối tác” trong cộng đồng quốc
tế. Quan hệ giữa Việt Nam với các nước trong khu vực Đông Nam Á tiếp tục được
củng cố, duy trì. Có thể thấy, những hoạt động tăng cường đối ngoại với các
nước lớn của Việt Nam là sự tiếp nối tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh. Cùng với
thời gian, mục tiêu “bất biến” trong tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh vẫn giữ nguyên giá trị trong bối cảnh đất nước hội nhập
quốc tế, soi sáng cho hoạt động ngoại giao Việt Nam trong công cuộc đấu tranh
bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc hiện nay.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Quốc
phòng (2019), Quốc phòng Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật,
Hà Nội.
2.
Phạm Hồng Chương (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về một số vấn đề cơ bản của cách
mạng Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3.
Đảng
Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội
Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4.
Đảng
Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5.
Đảng
Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà
Nội.
6.
Đảng
Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
7. Hồ Chí Minh (2006), Biên
niên tiểu sử, Nxb.
Chính trị quốc gia, tập 1.
8. Hồ
Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật,
Hà Nội, tập: 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 10, 11, 12, 13, 15.
9. Nguyễn
Dy Niên (2002), Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí
Minh, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
Hoàng
Quốc Việt (2003), Con đường theo Bác, Nxb. Thanh niên, Hà Nội.