Chủ nhật, ngày 26/12/2021, 15:46

Các giải pháp xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng

TRẦN VĂN PHÒNG
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

(GDLL) - Bài viết phân tích chỉ rõ tính đồng bộ, toàn diện, hệ thống của 10 giải pháp lớn cùng nhiều biện pháp cụ thể mà Đại hội XIII đã đề ra nhằm nâng cao hiệu quả công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Trên cơ sở đó, giữ vững năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong điều kiện mới.

Từ khoá: Chỉnh đốn Đảng; năng lực lãnh đạo, cầm quyền; nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; xây dựng.

Hội nghị cán bộ toàn quốc quán triệt, triển khai kết luận và quy định của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng (ngày 9-12-2021).

(Ảnh: http://www.xaydungdang.org.vn)

Một trong những điểm mới trong chủ đề Đại hội XIII của Đảng so với chủ đề các Đại hội Đảng trước là bắt đầu bằng thành tố “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh”[1]. Bổ sung thêm thành tố mới này là bởi lẽ, từ những thành công và hạn chế qua 35 năm đổi mới, Đảng đã nhận thấy “sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam”[2]. Hơn nữa, xuất phát từ những hạn chế, khuyết điểm về xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ Đại hội XII, Đại hội XIII đã yêu cầu “toàn Đảng phải nghiêm túc nhìn nhận, nỗ lực phấn đấu để khắc phục, tiếp tục lãnh đạo đất nước phát triển nhanh, bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa[3]. Chính vì vậy, Đại hội XIII đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và đề ra hệ thống 10 giải pháp đồng bộ sau:

 Một là, tăng cường xây dựng Đảng về chính trị với tinh thần “Kiên định và không ngừng vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong từng giai đoạn. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Kiên định đường lối đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng, kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng”[4]. Rõ ràng, để giữ vững vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng thì nhất định phải kiên trì 4 nguyên tắc trên. Buông lỏng, xa rời 4 nguyên tắc này sẽ phải trả giá đắt. Thực tế việc đánh mất vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô trong cải tổ có nhiều nguyên nhân, nhưng trước hết là sai lầm không kiên trì và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin; không kiên trì mục tiêu chủ nghĩa xã hội, buông lỏng các nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới mà V.I.Lênin đã khởi xướng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ. Bài học đó cho chúng ta thấy, Đảng Cộng sản Việt Nam còn phải kiên trì đường lối đổi mới đúng đắn vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh. Đồng thời, Đại hội XIII cũng đề ra nhiệm vụ nâng cao bản lĩnh, năng lực dự báo, chất lượng hoạch định đường lối, chính sách phù hợp thực tiễn Việt Nam và xu hướng phát triển của thời đại. Nâng cao lập trường, bản lĩnh chính trị, trình độ, trí tuệ, tính chiến đấu của cấp ủy, tổ chức đảng cũng như mỗi đảng viên. Thực hành dân chủ trong Đảng gắn liền với tăng cường, kỷ cương, kỷ luật của Đảng[5].

Hai là, coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng với tinh thần “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức công tác tư tưởng theo hướng chủ động, thiết thực, kịp thời và hiệu quả; nâng cao tính chiến đấu, tính giáo dục, tính thuyết phục trong tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”[6]. Để thực hiện tốt giải pháp này, Đại hội XIII đề ra bảy biện pháp cụ thể:

i) Nắm chắc, dự báo đúng, định hướng chính xác, xử lý đúng đắn, kịp thời các vấn đề tư tưởng trong Đảng, trong xã hội. Chú trọng nắm bắt, định hướng dư luận xã hội, bảo đảm thống nhất tư tưởng trong Đảng, đồng thuận cao trong xã hội.

ii)  Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, hoàn thiện hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Gắn tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận với định hướng chính sách.

iii) Thực hiện nghiêm Quy định dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị, tạo môi trường dân chủ, khuyến khích tìm tòi, sáng tạo, phát huy trí tuệ của các tổ chức và cá nhân. Chú trọng cập nhật kết quả tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận; sớm kết luận những vấn đề lý luận đã chín, đã rõ để hoàn thiện, phát triển đường lối chủ trương xây dựng, bảo vệ tổ quốc.

iv) Tiếp tục đổi mới mô hình tổ chức, phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nghiên cứu lý luận. Từng bước đưa hoạt động trao đổi lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam với một số đảng cầm quyền, đảng tham chính ở một số nước đi vào chiều sâu, hiệu quả.

v) Đầu tư thích đáng cho việc xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ lý luận; có chế độ, chính sách thỏa đáng nhằm thu hút, trọng dụng các chuyên gia đầu ngành.

vi) Tiếp tục đổi mới việc học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng bảo đảm thiết thực, hiệu quả. Đổi mới căn bản chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục lý luận chính trị theo phương châm khoa học, thực tiễn, sáng tạo và hiện đại; đưa việc bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược vào nền nếp, nhất quán từ Trung ương đến cơ sở, phù hợp từng đối tượng, chú trọng chất lượng, hiệu quả, siết chặt kỷ luật, kỷ cương.

vii) Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị; đấu tranh ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ[7]. Thực hiện tốt bảy biện pháp cụ thể này sẽ thực hiện tốt giải pháp xây dựng Đảng về tư tưởng.

Ba là, tập trung xây dựng Đảng về đạo đức với phương châm “Nêu cao tinh thần tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên. Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, thực hiện thường xuyên, sâu rộng, có hiệu quả việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ chí Minh gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị”[8]. Để thực hiện tốt giải pháp này, Đại hội XIII đề ra ba biện pháp cụ thể cần thực hiện:

i) Thực hiện nghiêm túc quy định của Đảng về trách nhiệm nêu gương, chức vụ càng cao càng phải gương mẫu, trước hết là Ủy viên bộ chính trị, Ủy viên ban Bí thư, Ủy viên, Ủy viên ban Chấp hành Trung ương. Mỗi đảng viên tự giác nêu gương để khẳng định vai trò tiền phong, gương mẫu, tạo sự lan tỏa. Coi trọng kiểm tra, giám sát trong Đảng kết hợp với phát huy vai trò giám sát của các cơ quan dân cử, của Mặt trận Tổ quốc, báo chí và nhân dân đối với cán bộ, đảng viên thực hiện các quy định nêu gương.

 ii) Nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các giá trị đạo đức cách mạng theo tinh thần “Đảng ta là đạo đức, là văn minh” cho phù hợp điều kiện mới và truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Xây dựng các chuẩn mực đạo đức làm cơ sở cho cán bộ, đảng viên tự điều chỉnh hành vi ứng xử trong công việc hàng ngày. Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện và thực hành đạo đức cách mạng.

iii) Tăng cường đấu tranh chống các quan điểm, hành vi phản đạo đức, phi đạo đức. Cổ vũ, biểu dương các gương sáng đạo đức tạo ảnh hưởng sâu rộng trong Đảng và ngoài xã hội. Thực hiện tốt ba biện pháp cụ thể này sẽ thực hiện tốt giải pháp xây dựng Đảng về đạo đức.

Bốn là, đẩy mạnh xây dựng Đảng về tổ chức; tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị với tinh thần “Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đồng bộ với đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội, con người... đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa”[9]. Để thực hiện tốt giải pháp này, Đại hội XIII yêu cầu thực hiện tốt các biện pháp cụ thể: Tổng kết các mô hình thí điểm về tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị. Tiếp tục hoàn thiện mô hình tổ chức của hệ thống chính trị. Khắc phục sự chồng chéo, bất hợp lý trong tổ chức của Đảng và của bộ máy trong hệ thống chính trị. Đẩy mạnh thực hiện tinh giản biên chế gắn với cơ cấu đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo vị trí việc làm[10].

Năm là, củng cố nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên với tinh thần “Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Rà soát, sửa đổi, bổ sung chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, mối quan hệ công tác của các loại hình tổ chức cơ sở đảng phù hợp với tiến trình đổi mới, sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị”[11]. Để thực hiện tốt giải pháp này cần thực hiện ba biện pháp cụ thể sau:

i) Nâng cao vai trò, trách nhiệm của các tổ chức cơ sở đảng trong việc giáo dục, rèn luyện, kiểm tra, quản lý, giám sát đảng viên; đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, sinh hoạt của chi bộ.

ii) Thực hiện chủ trương bí thư cấp ủy đồng thời là thủ trưởng cơ quan, đơn vị, cơ bản thực hiện mô hình bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch Hội đồng nhân dân các cấp, bí thư cấp ủy là chủ tịch Ủy ban nhân dân, bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, tổ trưởng dân phố hoặc trưởng ban công tác mặt trận ở những nơi có điều kiện.

iii) Nâng cao chất lượng đảng viên. Đổi mới công tác đánh giá, xếp loại đảng viên bảo đảm thực chất. Phát hiện, quy hoạch, bồi dưỡng, phát huy vai trò của những đảng viên ưu tú, có triển vọng, chuẩn bị nguồn cán bộ chủ chốt các cấp. Coi trọng công tác phát triển đảng viên, bảo đảm số lượng, chất lượng. Đẩy mạnh phát triển đảng viên trong công nhân trực tiếp sản xuất, trí thức và doanh nhân, từ những thanh niên ưu tú. Nâng cao chất lượng quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên. Sàng lọc, kiên quyết đưa những người không đủ tư cách ra khỏi Đảng[12].

Sáu là, tăng cường xây dựng Đảng về cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu với tinh thần “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Hoàn thiện thể chế, quy định về công tác cán bộ, tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí, cơ chế đánh giá cán bộ. Xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là người đứng đầu có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, năng lực nổi bật, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hành động vì lợi ích chung, có uy tín cao và thực sự tiên phong, gương mẫu, là hạt nhân đoàn kết”[13]. Để thực hiện tốt giải pháp này, cần thực hiện tốt hai biện pháp cụ thể sau:

i) Xây dựng quy định về thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ; thực hiện tốt quy định về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, chống chạy chức, chạy quyền; xử lý nghiêm minh, đồng bộ, kỷ luật đảng, kỷ luật hành chính và xử lý bằng pháp luật đối với cán bộ có vi phạm, kể cả đã chuyển công tác hoặc nghỉ hưu.

ii) Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách tạo động lực cho cán bộ phấn đấu, toàn tâm, toàn ý với công việc. Coi trọng và làm tốt công tác bảo vệ cán bộ, bảo vệ chính trị nội bộ. Kiên quyết phòng chống các biểu hiện bè phái, “lợi ích nhóm” và lợi dụng các phương tiện thông tin đại chúng để xuyên tạc sự thật, kích động, gây rối, chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ[14].

Bảy là, tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng với chủ trương “Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện các quy định, quy chế nhằm giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát”[15]. Để thực hiện tốt giải pháp này cần thực hiện tốt bốn biện pháp sau:

i) Cải tiến, đổi mới phương pháp, quy trình, kỹ năng công tác kiểm tra, giám sát kỷ luật đảng bảo đảm khách quan, dân chủ, khoa học, đồng bộ, thống nhất, thận trọng, chặt chẽ, khả thi. Tập trung vào các cơ chế, biện pháp chủ động phát hiện sớm để phòng ngừa, ngăn chặn khuyết điểm vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên; có chế tài phòng ngừa, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm kỷ luật đảng.

ii) Đổi mới mạnh mẽ, nâng cao chất lượng, hiệu quả, hiệu lực lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng; công tác hướng dẫn, chỉ đạo của ủy ban kiểm tra cấp trên đối với cấp ủy, tổ chức đảng và ủy ban kiểm tra cấp dưới.

iii) Triển khai quyết liệt, thường xuyên, đồng bộ, toàn diện công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng. Tập trung kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, người đứng đầu, cán bộ chủ chốt ở những nơi để xảy ra vi phạm, nơi có nhiều bức xúc nổi cộm; xử lý kịp thời, nghiêm minh, triệt để các tổ chức đảng, đảng viên vi phạm. Tăng cường quản lý, kiểm tra, giám sát cán bộ.

iv) Kết hợp chặt chẽ và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với giám sát, thanh tra, kiểm toán nhà nước và điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Tăng cường phối hợp giữa giám sát, kiểm tra của Đảng với giám sát, thanh tra của Nhà nước và giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội để tăng cường sức mạnh tổng hợp và nâng cao hiệu lực, hiệu quả giám sát, kiểm tra, tránh chồng chéo, trùng lặp, lãng phí nguồn lực. Tăng cường kiểm tra, giám sát cơ quan tham mưu, giúp việc cấp ủy, công tác cán bộ[16]...


Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chủ trì Phiên họp 20 Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng ngày 5/8/2021.

(Ảnh: https://tuyengiao.vn)

Tám là, “Thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng”[17]. Điểm mới của giải pháp này là lần đầu tiên Đảng ta đưa vào văn kiện tư tưởng dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Để thực hiện tốt giải pháp này, Đại hội XIII yêu cầu thực hiện tốt năm biện pháp cụ thể sau:

i) Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động của các cấp ủy đảng, hệ thống chính trị về công tác dân vận; có cơ chế phát huy vai trò của nhân dân trong xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh trong tình hình mới.

ii) Nêu cao tinh thần trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, nhất là của chính quyền các cấp đối với công tác dân vận. Phát huy vai trò, sự tham gia  của nhân dân trong xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trên cơ sở bảo đảm hài hòa lợi ích  giữa Nhà nước, doanh nghiệp và nhân dân, giữa các vùng, địa phương.

iii) Tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hóa, thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.

iv) Tiếp tục hoàn thiện và thực thi quy định về đạo đức công vụ trong công tác dân vận, phát huy vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu. Phê phán, xử lý nghiêm những cán bộ, công chức, viên chức thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, nhũng nhiễu dân. Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở.

v) Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, thực hiện tốt phong trào thi đua “Dân vận khéo”, tuyên truyền, biểu dương, nhân rộng các mô hình, điển hình về công tác dân vận. Rà soát, bổ sung quy chế về công tác dân vận.

Chín là, “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí”[18] với quyết tâm chính trị cao hơn, hành động mạnh mẽ, triệt để hơn, hiệu quả hơn. Để thực hiện tốt giải pháp này, Đại hội XIII yêu cầu thực hiện tốt bảy biện pháp cụ thể sau:

i) Kết hợp chặt chẽ giữa tích cực phòng ngừa với chủ động phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời những hành vi tham nhũng, lãng phí, bao che, dung túng, tiếp tay cho tham nhũng, không có vùng cấm, không có ngoại lệ.

ii) Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của toàn dân; thực hiện đồng bộ các biện pháp chính trị, tư tưởng, tổ chức, hành chính, kinh tế, hình sự.

iii) Tiếp tục đẩy mạnh hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục, tạo sự tự giác, thống nhất cao về ý chí hành động của cán bộ, đảng viên và nhân dân về phòng, chống tham nhũng, lãng phí.

iv) Đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về kinh tế - xã hội, về kiểm tra, giám sát và phòng, chống tham nhũng, lãng phí, nhất là các quy định về kiểm tra, kiểm soát quyền lực, trách nhiệm người đứng đầu, trách nhiệm giải trình, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch.

v) Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, phát hiện sớm, xử lý nghiêm minh các vụ việc, vụ án tham nhũng, lãng phí; kiên quyết thu hồi tài sản tham nhũng; kịp thời xử lý, thay thế cán bộ lãnh đạo, quản lý khi có biểu hiện tham nhũng, lãng phí...

vi) Tiếp tục kiện toàn tổ chức, bộ máy, cán bộ bảo đảm liêm chính, trong sạch, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan, đơn vị có chức năng  phòng, chống tham nhũng...

vii) Tiếp tục đẩy mạnh cải cách chính sách tiền lương, nâng cao thu nhập và có chính sách nhà ở, bảo đảm cuộc sống để cán bộ, công chức, viên chức yên tâm công tác[19].

 Mười là, “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới[20]. Cụ thể là tiếp tục cụ thể hóa phương thức lãnh đạo của Đảng đã được xác định trong Cương lĩnh ở tất cả các cấp bằng những quy định, quy chế, quy trình cụ thể và công khai để cán bộ, đảng viên và nhân dân biết, giám sát việc thực hiện. Đặc biệt sẽ “Quy định cụ thể Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình[21]...”. Đồng thời, “Đổi mới phương pháp, phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới cơ sở; xây dựng và thực hiện phong cách làm việc khoa học, tập thể, dân chủ, trọng dân, gần dân, hiểu dân, vì dân, bám sát thực tiễn, cầu thị, học hỏi, nói đi đôi với làm” [22]. Cuối cùng là đổi mới, nâng cao chất lượng xây dựng, ban hành nghị quyết của Đảng và tổ chức thực hiện nghị quyết trong cuộc sống. Bên cạnh đó, tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong điều kiện mới.


Cuốn sách Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt để phát triển đất nước, tác giả Nguyễn Phú Trọng

Có thể nói, Đại hội XIII đã đề ra mười giải pháp lớn cùng một loạt các biện pháp cụ thể, mang tính tổng thể, đồng bộ, toàn diện, cấp thiết để xây dựng, chỉnh đốn Đảng trên tất cả các phương diện chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức, cán bộ, công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới. Thực hiện tốt các giải pháp này thì công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng sẽ hiệu quả, thiết thực, năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng sẽ được nâng lên. 

Tài liệu tham khảo:

1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.


[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tập 1, tr.57.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Sđd, tập 1, tr.104.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Sđd, tập 1, tr.95.

[4]Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Sđd, tập 1, tr.180.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Sđd, tập 1, tr.180-181.

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Sđd, tập 1, tr.181.

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Sđd, tập 1, tr.181-183.

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Sđd, tập 1, tr.183.

[9] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Sđd, tập 1, tr.185.

[10] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Sđd, tập 1, tr.185.

[11] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Sđd, tập 1, tr.185-186.

[12] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Sđd, tập 1, tr.186-187.

[13] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Sđd, tập 1, tr.187.

[14] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Sđd,  tập 1, tr.187-188.

[15] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Sđd, tập 1, tr.188.

[16] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Sđd, tập 1, tr.189-191.

[17] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Sđd, tập 1, tr.191.

[18] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Sđd, tập 1, tr.193.

[19] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Sđd, tập 1, tr.193-196.

[20] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Sđd, tập 1, tr.185-199.

[21] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Sđd, tập 1, tr.198.

[22] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Sđd, tập 1, tr.198-199.

Đọc thêm

Tính độc đáo của nền đối ngoại, ngoại giao mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”

Tác giả: Bùi Giang Nam

(GDLL) - Trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam, nền đối ngoại, ngoại giao (bao gồm đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại Nhân dân) luôn giữ một vai trò hết sức quan trọng. Trên cơ sở phân tích đường lối đối ngoại của Việt Nam thời kỳ đổi mới và những thành tựu đã đạt được, bài viết làm sáng tỏ tính độc đáo của nền ngoại giao Việt Nam hiện nay, đó là nền đối ngoại, ngoại giao mang đậm bản sắc “Cây tre Việt Nam”.

Thực hiện chủ trương của Đảng về khuyến khích, tạo điều kiện phát triển các công ty, tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh

Tác giả: ThS Lê Quốc

(LLCT) - Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng”(1), chủ trương khuyến khích, tạo điều kiện phát triển các công ty, các tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh. Bài viết làm rõ vai trò của doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự đổi mới trong nhận thức và thực tiễn phát triển doanh nghiệp tư nhân trong thời kỳ đổi mới. Từ đó, đề xuất giải pháp phát triển các công ty và tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có sức cạnh tranh cao trong những năm tiếp theo.

Nâng cao phúc lợi xã hội cho nhân dân theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 8 khóa XIII

Tác giả: TS. Đỗ Văn Quân - ThS. Nguyễn Trọng Tuân

(TG) - Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh, một trong những giải pháp để bảo đảm cho sự tiến bộ và công bằng xã hội trở thành hiện thực trên đất nước ta là thực hiện tốt phúc lợi xã hội.

Nâng cao khả năng thích ứng của nguồn nhân lực Việt Nam trước yêu cầu Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Tác giả: Nguyễn Mai Phương

(GDLL) - Thế giới đã và đang chứng kiến những thay đổi to lớn về mặt khoa học, công nghệ do cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại. Bài viết nghiên cứu về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những yêu cầu đặt ra đối với nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay; Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng thích ứng của nguồn nhân lực Việt Nam trước yêu cầu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về an ninh mạng quốc gia và bảo vệ an ninh mạng quốc gia thời kỳ mới

Tác giả: Nguyễn Văn Nghĩa

(GDLL) - Bảo vệ chủ quyền, lợi ích và an ninh quốc gia trên không gian mạng trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ là nhiệm vụ rất quan trọng, có tầm chiến lược. Phòng, chống tấn công mạng, tội phạm mạng và ứng phó với những nguy cơ mới đến từ không gian mạng đã trở thành vấn đề toàn cầu, trong đó có Việt Nam. Bài viết đi sâu khái quát quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về an ninh mạng quốc gia và đề xuất một số giải pháp chủ yếu thực hiện có hiệu quả quan điểm của Đảng về an ninh mạng và bảo vệ an ninh mạng quốc gia thời kỳ mới.