Đặt
vấn đề
Ủy ban
Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp thành lập là một bước ngoặt làm thay đổi
toàn diện phương thức quản trị, điều hành tại các doanh nghiệp có vốn nhà nước
thúc đẩy tách bạch rõ chức năng quản lý nhà nước và chức năng quản lý vốn nhà
nước tại doanh nghiệp; góp phần hạn chế tiêu cực, cải thiện môi trường kinh
doanh bình đẳng minh bạch tăng hiệu quả sử dụng vốn nhà nước, giảm chi phí bất
hợp lý trong các doanh nghiệp
Từ khi thành lập cho đến nay, Ủy ban Quản lý vốn nhà nước đã tiến hành kiện
toàn hệ thống tổ chức, nâng cao năng lực quản lý, trình độ chuyên môn của đội
ngũ cán bộ lãnh đạo góp phần hoàn thành tốt các chỉ tiêu và nhiệm vụ chính trị
đề ra. Tuy nhiên, Ủy ban Quản lý vốn nhà nước cũng gặp nhiều khó khăn trong vấn
đề tổ chức và phát triển vốn nhà nước tại các doanh nghiệp. Để tháo gỡ khó
khăn, vượt qua thách thức, Ủy ban Quản lý vốn nhà nước đã tiến hành đẩy mạnh cổ
phần hóa, tập trung đổi mới nội dung, phương thức quản lý, nâng cao năng lực,
hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là các tập đoàn, tổng
công ty nhà nước.
1.
Thực trạng quản lý, điều hành của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp
Một là, tập trung kiện toàn tổ chức, xây dựng hệ thống chính
trị vững mạnh
Ngày 3/2/2018, Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp được thành lập trên cơ sở Nghị
quyết số 09/NQ-CP ngày 3 tháng 2 năm 2018
của Chính phủ. Sự thành lập Ủy ban Quản lý vốn nhà nước là một bước đột phá
trong nhận thức của Đảng, phù hợp với thực tế của đất nước. Việc chuyển quyền
quản lý vốn nhà nước từ các Bộ sang cơ quan mới là Ủy ban sẽ giúp vốn của Nhà
nước được quản lý thống nhất, tránh tình trạng thất thoát, tham nhũng; đồng
thời, tách bạch rõ vai trò quản lý của Nhà nước và đại diện chủ sở hữu vốn nhà
nước tại các doanh nghiệp.
Ngay sau khi thành lập, Ủy ban Quản lý
vốn nhà nước đã nhận được sự quan tâm của Đảng, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,
các Bộ, ngành, địa phương và 19 tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước trực thuộc.
Trên tinh thần đó, Ủy ban chủ động phối hợp chặt chẽ với ban lãnh đạo và các cơ
quan chức năng tiếp nhận chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại
19 tập đoàn, tổng công ty từ 5 Bộ, ngành (Bộ Công thương, Bộ Tài chính, Bộ Thông
tin và Truyền thông, Bộ Giao
thông vận tải, Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn) theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ; đồng thời, tập
trung xử lý, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc còn tồn đọng trong các dự án do
Bộ quản lý trước đây. Đồng thời, Ủy ban tập trung kiện toàn tổ chức, xây dựng
hệ thống vững mạnh; phân công, bố trí cán bộ phù hợp với năng lực, sở trường;
đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ cán
bộ.
Trong
công tác xây dựng tổ chức vững mạnh, trước khi chính thức đi vào hoạt động từ
ngày 29/9/2018, Ủy ban Quản lý vốn nhà nước đã xây dựng Đề án số 222/UBQLV-TCCB ngày
05/11/2018, đề xuất 70 vị trí việc làm cho 176
công chức và lập báo cáo trình Bộ Nội vụ xem xét, phê duyệt. Đến tháng 5/2020, tổ chức
của Ủy ban về cơ bản đã được kiện toàn đầy đủ theo hướng “tinh, gọn” bảo đảm
hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị đề ra. Về tổ chức, đã bầu được 3 lãnh đạo Ủy
ban, 26 lãnh đạo cấp Vụ và tương đương, 92 công chức.
Về cơ cấu, cán bộ quản lý, lãnh đạo ở trình độ đại
học và sau đại học tại nước ngoài chiếm 63%, đào tạo trong nước chiếm 37%.
Trong đó, 67% cán bộ đào tạo chuyên ngành kinh tế, tài chính, quản trị kinh
doanh, luật; 23% cán bộ chuyên ngành kỹ thuật. Trong tổ
chức cán bộ quản lý tại các doanh nghiệp, tính đến tháng 5/2020, Ủy ban đã hoàn
tất công tác quy hoạch các chức danh thuộc phân cấp cán bộ quản lý tại 16/19
doanh nghiệp trực thuộc Ủy ban. Còn 3 doanh nghiệp (Tổng công ty Lương thực
miền Nam, Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam, Tổng công ty Đầu tư phát
triển đường cao tốc), chưa hoàn tất công tác quy hoạch do chưa thực hiện đúng quy
trình theo Hướng dẫn số 15-HD/BTCTW của Ban Tổ chức Trung ương về công tác quy
hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Ủy ban tiến hành đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng,
phát huy vai trò hạt nhân chính trị
của tổ chức đảng, tạo sự thống nhất trong nhận thức và hành động, góp phần củng
cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng; đẩy mạnh giáo dục chính trị, tư tưởng cho
đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ làm công tác quản lý, lãnh đạo nhằm ngăn chặn
đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đảng bộ Ủy ban cũng đặc biệt quan tâm vấn đề
triển khai công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, luân chuyển cán
bộ; bố trí, sắp xếp cán bộ phù hợp với khả năng, sở trường, qua đó, phát huy
tính chủ động, sáng tạo của đội ngũ cán bộ.
Đồng thời, Ủy ban cũng tích cực tham gia, phối hợp
với các cơ quan trong việc xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách, hoàn thành
nhiệm vụ của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ giao và các nhiệm vụ khác thuộc
phạm vi của cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
Hai là, đẩy mạnh cổ phần hóa và
thoái vốn nhà nước
Về công tác tái cơ cấu, cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước
tại các tập đoàn, tổng công ty nhà nước được triển khai thực hiện từng bước;
với từng tập đoàn, tổng công ty trực thuộc Ủy ban, có sự giám sát chặt chẽ,
tuân thủ nghiêm theo quy định của pháp luật. Ủy ban đã chỉ đạo tiến hành cổ
phần hóa 6 doanh nghiệp, thoái vốn tại các doanh nghiệp thu với mục tiêu tối đa
hóa lợi ích của Nhà nước, của doanh nghiệp trên cơ sở minh bạch, công khai, lựa
chọn thời điểm có hiệu quả.
Đối với công tác cổ phần hóa, ngay sau khi tiếp nhận, Ủy
ban đã kế thừa và thành lập Ban chỉ đạo cổ phần hóa tại từng tập đoàn, tổng
công ty và chỉ đạo triển khai quyết liệt, tập trung rà soát, đo, kiểm đất đai
và trình các địa phương chấp thuận quy hoạch, trình các cơ quan quản lý phê
duyệt. Hiện tại, Ủy ban đã tiến hành cổ phần hóa cho các doanh nghiệp: Tập đoàn Than và Khoáng sản Việt Nam, Tập
đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam VNPT, Tập đoàn Hóa chất Việt Nam, Tổng công
ty Lương thực Miền Bắc, Tổng công ty Viễn thông Mobifone, Tổng công ty Phát
điện 2. Trong đó, Tổng công ty Phát điện 2 (EVN Genco2) có vốn nhà nước gần 12
nghìn tỷ đồng, tổng tài sản trên 25 nghìn tỷ đã hoàn thành tiến độ cổ phần hóa
theo Nghị định số 126/2017/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2017 về chuyển doanh
nghiệp nhà nước và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do doanh nghiệp
nhà nước đầu tư 100% vốn điều lệ thành công ty cổ phần.
Về tình hình thoái vốn, Ủy ban
đã có kiến nghị gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiến hành thoái vốn của 3 doanh
nghiệp theo quy định của Thủ tướng Chính phủ gồm: Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam
(Petrolimex), Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam (ACV) và Tổng công ty Hàng
không Việt Nam (VNA).
Như vậy, tuy
mới được thành lập trong khoảng thời gian ngắn nhưng Ủy ban Quản lý vốn nhà
nước đã phát huy tốt vai trò đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại các
doanh nghiệp. Ngay từ khi mới thành lập,
Ủy ban đã chủ động giải quyết những khó khăn, vượt qua thử thách để hoàn thành
nhiệm vụ được giao và đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Bước đầu ổn định
quan hệ công tác giữa Ủy ban và các tập đoàn, tổng công ty, giải quyết các vấn
đề liên quan theo một lộ trình thống nhất, tuân thủ quy định của pháp luật góp
phần bảo toàn và phát triển nguồn vốn của Nhà nước tại các doanh nghiệp, đồng
thời, giữ vững tính chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Ba là, quyết liệt trong xử lý 12 dự án
ngành Công thương kém hiệu quả
Sau khi tiếp nhận trách nhiệm
từ Bộ Công thương từ cuối năm 2019, trong 9 tháng vừa qua, Ủy ban đã quyết liệt
trong việc rà soát, báo cáo và trình Ban chỉ đạo tổ chức họp 4 phiên theo các
nội dung cụ thể; đồng thời đã xây dựng 16 loại báo cáo và gửi đến Quốc hội, đến
các đồng chí trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Kinh tế Trung ương để đề xuất
và nhận chỉ đạo. Thực hiện sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Ủy ban đã tiến
hành phân loại 12 dự án của ngành Công thương đang hoạt động kém hiệu quả thành
3 nhóm để có cơ sở áp dụng các giải pháp, chỉ đạo phù hợp.
Cụ thể, nhóm 1 là nhóm các dự
án có khả năng phục hồi: Dự án DAP2 Hải Phòng, Dự án PVtex Hải Phòng; nhóm 2 là
nhóm các dự án có thể tái cơ cấu để phục hồi: Dự án Nhiên liệu sinh học Quảng
Ngãi, Công ty Trách nhiệm hữu hạn Công nghiệp tàu thủy Dung Quất, Công ty Cổ
phần Phân Đạm và Hóa chất Hà Bắc, Dự án DAP2 và 2 dự án của Tổng Công ty Thép
Việt Nam; nhóm 3 là nhóm các dự án không thể tái cơ cấu để phục hồi, phải kiên
quyết cho phá sản, giải thể, bán dự án, hoặc thực hiện phương án khác để giảm
bớt thiệt hại cho Nhà nước: Nhà máy nhiên liệu sinh học Phú Thọ, Nhà máy nhiên
liệu sinh học Bình Phước, Công ty Đạm Ninh Bình, Nhà máy bột giấy Phương Nam.
Việc phân loại có tính động, nghĩa là có sự luân chuyển giữa các nhóm tùy theo
kết quả từng dự án tại thời điểm xem xét.
Trên cơ sở
phân nhóm, Ủy ban đã đề xuất đưa dự án DAP2 Hải phòng ra khỏi danh sách để thực
hiện thoái vốn theo quy định hiện hành, phù hợp phương án trong Quyết định
1468/QĐ-TTg 29/09/2017 Phê duyệt "Đề án xử lý các tồn tại, yếu kém của một
số dự án, doanh nghiệp chậm tiến độ, kém hiệu quả thuộc ngành Công
Thương". Đồng thời, đề xuất đưa 2 dự án: Nhà máy nhiên liệu sinh học Phú
Thọ, Nhà máy nhiên liệu sinh học Bình Phước ra khỏi danh sách để xử lý tài sản
thế chấp và thực hiện thủ tục phá sản. Cả 2 dự án này đều có vốn góp chỉ ở cấp
công ty con của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam; mức góp 29 đến 39%, không
đủ tỷ lệ chi phối, ra quyết định.
Bên cạnh đó, Ủy ban còn đề
xuất, phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước tìm giải pháp tháo gỡ bế tắc
trong quyết toán hợp đồng EPC do tranh chấp kéo dài với nhà thầu. Đồng thời,
đốc thúc các doanh nghiệp tìm cách đàm phán, giải quyết các tranh chấp.
2. Một số giải pháp nâng cao năng lực
quản lý, điều hành của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp
Để
nâng cao năng lực quản lý, điều hành, trong thời gian tới Ủy ban Quản lý vốn
nhà nước cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Thứ
nhất, hoàn thiện thể chế, chính sách, thống nhất quy định về tổ chức, hoạt động
kinh doanh, tái cơ cấu, cổ phần hóa, thoái vốn của các tập đoàn, tổng công ty
do Ủy ban làm đại diện chủ sở hữu nhà nước
Việc
rà soát, kiến nghị các cấp có thẩm quyền xem xét, sửa đổi, bổ sung các quy định
của pháp luật chưa đầy đủ, chưa rõ ràng, chưa thống nhất về hoạt động kinh
doanh của các tập đoàn, doanh nghiệp, nhất là các quy định trong Luật Đầu tư,
Luật Đầu tư công, Luật Xây dựng, Luật Quản lý và sử dụng vốn nhà nước đầu tư
tại doanh nghiệp, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công… giúp Ủy ban quản lý hiệu
quả nguồn vốn tại các doanh nghiệp, giải quyết các điểm nghẽn về đầu tư tồn tại
nhiều năm qua, đẩy nhanh tiến trình thực hiện các thủ tục đầu tư, quản lý của
các cơ quan hành chính nhà nước. Bên cạnh đó, Ủy ban cần giám sát việc thực
hiện tái cơ cấu, cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước toàn diện tại các tập đoàn,
tổng công ty đảm bảo đúng nội dung, kế hoạch và tiến độ, minh bạch, công khai
theo quy định của pháp luật.
Thứ
hai, kiện toàn bộ máy tổ chức của Ủy ban đáp ứng nhu cầu quản lý và phát triển
nguồn vốn nhà nước tại các doanh nghiệp
Trong
thời gian tới, Ủy ban cần nghiên cứu, sắp xếp, bố trí cán bộ và kiện toàn hệ
thống kiểm soát viên nhà nước tại các tập đoàn, tổng công ty; quy định về chế
độ làm việc, đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của kiểm soát viên. Đồng thời, phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu đổi mới mô hình
tổ chức, phương thức lãnh đạo, phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã
hội tại các doanh nghiệp.
Thứ ba, tiếp tục triển khai và đẩy mạnh chiến lược,
kế hoạch, chương trình về quản lý nguồn vốn nhà nước tại doanh nghiệp đã được
phê duyệt
Ủy
ban chủ động phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương tiếp tục đẩy mạnh cổ phần
hóa, thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp đã tiếp nhận và phê duyệt theo
đúng tiến độ. Đồng thời, chỉ đạo các tập đoàn, tổng công ty thực hiện nghiêm
túc các quy định về giám sát hiệu quả hoạt động và nguồn vốn đầu tư nhà nước
vào doanh nghiệp; kiến nghị, đề xuất với Chính phủ về cơ cấu
lại các tập đoàn, tổng công ty định hướng phát triển thành những tập đoàn, tổng
công ty đa sở hữu, quy mô lớn, hoạt động đa lĩnh vực, mang tầm chiến lược và có
khả năng cạnh tranh trong khu vực, quốc tế.
Thứ
tư, tăng cường đầu tư, từng bước nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo, nghiên
cứu, ứng dụng chuyển giao khoa học công nghệ, kỹ thuật hiện đại vào sản xuất,
kinh doanh, quản lý
Đây
là yếu tố quyết định đến hiệu quả, năng suất và sức cạnh tranh của các doanh
nghiệp có vốn nhà nước. Nâng cao năng lực quản lý và sử dụng công cụ quản lý
hiện đại trong việc giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh
của các doanh nghiệp sẽ giúp Ủy ban kiểm soát tốt nguồn vốn của Nhà nước. Đồng
thời, hạn chế các rủi ro về tài chính tại các doanh nghiệp. Trong thời gian
tới, Ủy ban cần ban hành hệ thống tiêu chí quản trị hiện đại với nền tảng công
nghệ thông tin tiên tiến, từng bước hoàn thiện và vận hành phần mềm đo các chỉ
số giám sát tài chính của các doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhà nước.
Thứ
năm, định hướng xây dựng mô hình quản trị doanh nghiệp hiện đại
Xây
dựng mô hình quản trị doanh nghiệp hiện đại là xu hướng tất yếu khi hoàn thành
công tác kiện toàn hệ thống tổ chức nhằm ngăn ngừa, phát hiện và xử lý các vi
phạm pháp luật, lợi ích nhóm, tránh tình trạng lợi dụng chức vụ, quyền hạn để
thực hiện các hành vi tiêu cực, tham nhũng. Đồng thời, tăng cường hoạt động
giám sát chặt chẽ, không để xảy ra tình trạng thất thoát vốn, tài sản của Nhà
nước trong quá trình hoạt động kinh doanh, cổ phần hóa, thoái vốn và quản lý,
sử dụng vốn nhà nước.
Kết
luận
Quyết định thành lập Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại
doanh nghiệp là chủ trương đúng đắn của Đảng, phù hợp với thực tế và yêu cầu về
quản trị doanh nghiệp ở Việt Nam; là mô hình quản lý vốn theo hình thức đại
diện chủ sở hữu nhà nước tại các doanh nghiệp theo đúng thông lệ
quốc tế về quản trị doanh nghiệp. Tuy nhiên, để thực hiện tốt vai trò, chức
năng nhiệm vụ của mình, Ủy ban cần thực hiện những bước đột phá trong quản lý,
điều hành vốn có hiệu quả tại các tập đoàn, tổng công ty có vốn của Nhà nước,
từng bước hoàn thiện mô hình quản trị doanh nghiệp hiện đại.