Chủ nhật, ngày 26/12/2021, 16:06

Tiếp tục thống nhất nhận thức về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

TẠ THỊ ĐOÀN
Học viện Chính trị khu vực I

(GDLL) - Kinh tế thị trường hiện đại là mô hình kinh tế tổng quát mà các quốc gia lựa chọn như một xu hướng tất yếu của quá trình phát triển. Bài viết khẳng định tính quy luật của sự phát triển kinh tế thị trường; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; thực tiễn phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thời gian qua và đề ra một số giải pháp tiếp tục phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam giai đoạn tiếp theo.

Từ khóa: Cơ chế thị trường; kinh tế thị trường; kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.  

(Ảnh: https://dangcongsan.vn)

Đặt vấn đề

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là kiểu tổ chức kinh tế đặc biệt, vừa tuân theo những nguyên tắc và quy luật của hệ thống kinh tế thị trường, vừa bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Sau gần 35 năm đổi mới, nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước được hoàn thiện theo hướng hiện đại, đồng bộ và hội nhập. Trong suốt quá trình lãnh đạo, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng bổ sung, phát triển nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng thời kỳ nhằm thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) và phát triển rút ngắn để sớm đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

1. Tính quy luật của sự phát triển kinh tế thị trường

Kinh tế thị trường là giai đoạn, là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hóa dựa trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất, trong đó toàn bộ các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất đều thông qua thị trường dưới sự tác động của các quy luật kinh tế khách quan. Thị trường khi ấy giữ vai trò trọng yếu trong việc phân bổ nguồn lực. Kinh tế thị trường chính là nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường.

Cơ chế thị trường là bộ máy tự điều tiết sự vận động của nền kinh tế thị trường với các đặc trưng cơ bản như sau:

Thứ nhất, cơ chế hình thành giá cả thị trường tự do. Bởi lẽ trong nền kinh tế thị trường các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể kinh tế đều được biểu hiện và thực hiện bằng quan hệ mua - bán hàng hoá, dịch vụ thông qua thị trường và được tiền tệ hoá. Quan hệ cung – cầu trên thị trường tác động tới sự biến động của giá cả thị trường.

Thứ hai, trên thị trường, dưới tác động của các quy luật khách quan, các chủ thể luôn ganh đua nhau nhằm mang lại cho mình những điều kiện thuận lợi nhất trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa. Do đó, môi trường để cơ chế thị trường vận động là môi trường cạnh tranh.

Thứ ba, mọi chủ thể hoạt động trong kinh tế thị trường đều hướng vào mục tiêu lợi ích mà trước hết là lợi ích kinh tế của chính mình. Bởi vậy, trong nền kinh tế thị trường lợi nhuận được coi là mục đích, là động lực của mọi chủ thể tham gia thị trường.

Thứ tư, cơ chế thị trường chịu sự điều tiết của các quy luật kinh tế khách quan như quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ. Các chủ thể trong nền kinh tế trên cơ sở những tác động của các quy luật kinh tế khách quan sẽ có căn cứ để giải quyết ba vấn đề cơ bản của đời sống kinh tế: sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai?.

Cơ chế thị trường vận động sẽ tác động đến sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội với những tác động tích cực chủ yếu sau:

- Cơ chế thị trường tạo điều kiện phát huy mọi tiềm năng, nguồn lực vào phát triển kinh tế - xã hội; thúc đẩy tính chủ động sáng tạo, linh hoạt của các chủ thể kinh tế với phản ứng nhanh nhạy, kịp thời nắm bắt nhu cầu của thị trường, thường xuyên cải tiến phương pháp quản lý. Áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật,... Do đó, làm cho nền kinh tế phát triển năng động và có hiệu quả hơn.

- Cơ chế thị trường có khả năng tự điều chỉnh, sửa chữa sai lầm kịp thời hơn. Bởi vậy, hạn chế được phạm vi và mức độ tác hại của những sai lầm trong hoạt động kinh tế.

- Do dựa vào giá cả làm tín hiệu phản hồi khách quan tình hình của thị trường cho nên các hoạt động kinh tế sát với thực tế hơn, thoả mãn nhu cầu đa dạng, phong phú của xã hội. Các yếu tố chủ quan duy ý chí giảm hơn so với cơ chế kế hoạch hoá tập trung.

- Cơ chế thị trường phát huy được tính dân chủ trong quản lý kinh tế. Do đó, tạo động lực cho phát triển kinh tế.

Chính những ưu thế này nên kinh tế thị trường hiện là kiểu tổ chức để giải quyết có hiệu quả các câu hỏi cơ bản của đời sống kinh tế như sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Và sản xuất cho ai? mà chưa tìm được kiểu tổ chức sản xuất tốt hơn thay thế. Tuy nhiên, khi vận động thì cơ chế thị trường có những khuyết tật cản trở sự phát triển của nền sản xuất xã hội mà tự nó không thể khắc phục được, cụ thể đó là:

+ Trong thực tiễn của nền kinh tế thị trường, do các chủ thể chạy theo lợi nhuận nên dẫn đến lạm dụng và lãng phí tài nguyên của xã hội; không tránh khỏi các hiện tượng gian lận thương mại, đầu cơ, làm hàng giả... và nhiều bệnh trạng xã hội khác như: phân hoá giàu nghèo, thất nghiệp, lạm phát, phá sản, suy đồi đạo đức kinh doanh, gây ô nhiễm môi trường sinh thái...

+ Thường xuyên tạo ra sự mất cân đối, bất hợp lý ở tầm vĩ mô (biểu hiện rõ nhất là khủng hoảng chu kỳ) và làm giảm hiệu quả trên quy mô nền kinh tế quốc dân.

+ Cơ chế thị trường vận động sẽ làm nảy sinh độc quyền, do đó làm giảm hiệu quả của chính cơ chế thị trường và giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế.

+ Cơ chế thị trường ngày càng làm sâu sắc thêm tình trạng bất bình đẳng xã hội (thể hiện trên các mặt: Thu nhập, tài sản và cơ hội kinh doanh).

Kinh tế thị trường càng phát triển thì những khuyết tật của nó càng bộc lộ rõ nét, bản thân nó không thể tự khắc phục được nên nó ảnh hưởng sâu sắc đến chính sự vận động của cơ chế thị trường và làm giảm hiệu quả của tái sản xuất xã hội, của tăng trưởng và phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, sự phát triển của khoa học công nghệ ngày nay đã dẫn đến sự phát triển của lực lượng sản xuất ở trình độ cao, tạo ra một khối lượng của cải vật chất khổng lồ; nhiều ngành sản xuất hàng hóa và dịch vụ với những sản phẩm mới xuất hiện, vòng đời của sản phẩm được rút ngắn. Điều này dẫn đến quá trình gia nhập, rút khỏi thị trường và tái cơ cấu sản xuất diễn ra liên tục, trên phạm vi rộng.

Để phát huy ưu thế, hạn chế những khuyết tật của cơ chế thị trường, đồng thời làm cho nền kinh tế vận hành đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội thì đòi hỏi phải có sự can thiệp, điều tiết của nhà nước vào hoạt động của nền kinh tế. Từ đó làm xuất hiện cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước - kinh tế thị trường hiện đại (hay kinh tế thị trường hỗn hợp) xuất hiện. Như vậy, kinh tế thị trường hiện đại ra đời không phải là giai đoạn khác biệt, độc lập, tách rời với kinh tế hàng hoá mà nó chỉ là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hoá.

2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Đại hội lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 4/2001) đã khẳng định mô hình kinh tế ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa (gọi tắt là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa).

Đại hội lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 4/2006) đã khẳng định: Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là: Thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh"; giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn. 

Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.

Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, y tế, giáo dục..., giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội.

 Phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng”[1].

Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; vừa vận động theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội; trong đó, cơ chế thị trường được vận dụng đầy đủ, linh hoạt để phát huy mạnh mẽ, có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh"[2].

Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 01/2016) tiếp tục thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội”[3].

Nghị quyết Trung ương 5 khóa XII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ ra: “Thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta:

- Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà nước ta xây dựng là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước; là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh"...

- Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế; tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và bảo vệ tài nguyên, môi trường; phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội. Thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường"[4].

Như vậy, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế bao gồm 2 nhóm yếu tố: nhóm yếu tố của kinh tế thị trường và nhóm yếu tố của chủ nghĩa xã hội tồn tại trong nhau, xâm nhập, đan xen, tác động qua lại lẫn nhau và vận động theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó có nghĩa là: đây là kiểu tổ chức kinh tế vừa chịu sự chi phối khách quan của các quy luật thị trường, vừa dựa trên cơ sở và hướng theo mục tiêu, nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội.

3. Thực tiễn phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thời gian qua

Thực tiễn đổi mới thời gian qua ở Việt Nam đã chứng minh, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước được hoàn thiện theo hướng hiện đại, đồng bộ và hội nhập. Việc các chủ thể trong nền kinh tế phát huy vai trò của thị trường đã cho phép khai thác, sử dụng hiệu quả các yếu tố sản xuất, thúc đẩy phát triển kinh tế trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, theo nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường toàn cầu.

Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước GDP đạt bình quân giai đoạn 2011-2015 là 5,9% /năm, thì giai đoạn 2016-2020 ước đạt trung bình 6,8%/năm. Huy động nguồn lực cho đầu tư phát triển được đẩy mạnh, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội giai đoạn 2011-2020 đạt gần 15 triệu tỷ.

Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) xếp hạng Việt Nam là nền kinh tế có tính cạnh tranh thứ 67 thế giới trong năm 2019 với 61,5 điểm - tăng 10 bậc và tăng 3,5 điểm so với năm 2018. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Việt Nam theo xếp hạng của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới tăng 3 bậc với 6/7 nhóm trụ cột tăng điểm. Năm 2019 tiếp tục tốc độ tăng trưởng GDP trên 7%, vượt mọi dự báo,thuộc hàng cao nhất thế giới và khu vực. Cùng với đó, kinh tế vĩ mô vẫn ổn định. Kim ngạch xuất nhập khẩu của nước ta lần đầu tiên đạt mức 500 tỷ USD. Năm thứ tư xuất siêu liên tiếp, đạt 9,9 tỷ USD. Đầu tư xã hội, năng lực sản xuất kinh doanh tăng mạnh; Doanh nghiệp thành lập mới đạt con số 138.000 , mức kỷ lục với tổng số vốn đăng ký mới đạt khoảng 1,7 triệu tỷ đồng. Vốn đầu tư nước ngoài đăng ký đạt 38 tỷ USD, vốn FDI đạt mức kỷ lục 20,4 tỷ USD. Môi trường kinh doanh tiếp tục được cải thiện, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Đặc biệt, với việc tăng 3,5 điểm và 10 bậc theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), Việt Nam trở thành quán quân trong cuộc đua cải thiện thứ hạng trong Bảng xếp hạng Năng lực cạnh tranh toàn cầu 2019.

Thu ngân sách trong năm 2019, ước đạt trên 1.400 tỷ đồng. Các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm; kỷ luật, kỷ cương tài chính - ngân sách nhà nước được tăng cường; nợ công giảm mạnh. Thị trường tiền tệ ổn định; cán cân thanh toán quốc tế được cải thiện; dự trữ ngoại hối tiếp tục tăng cao.[5]

Đời sống nhân dân được nâng lên khi với quy mô GDP ước đạt hơn 266 tỷ USD, bình quân GDP đầu người đạt gần 2.800 USD. Đáng lưu ý, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 1,45%. Việt Nam nằm trong nhóm các nước có tốc độ tăng trưởng chỉ số phát triển con người - HDI (Human Development Index) cao nhất trên thế giới và với chỉ số HDI năm 2019 là 0,63, Việt Nam xếp thứ 118 trong tổng số 189 nước. Việt Nam cũng đang ở gần mức trần của nhóm các nước có HDI ở mức trung bình và chỉ cần thêm 0,007 điểm để vào được nhóm các nước có HDI ở mức cao.

4. Giải pháp tiếp tục phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo

Một là, tiếp tục thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

“Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh"[6].

Hai là, về hoàn thiện th chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ: “Tiếp tục hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; nâng cao hiệu lực, hiệu quả, kỷ luật, kỷ cương, công khai, minh bạch trong quản lý kinh tế, năng lực quản lý của Nhà nước và năng lực quản trị doanh nghiệp[7].

“Tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp

Thể chế hóa quyền tài sản (bao gồm quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt và hưởng lợi từ sử dụng tài sản) của Nhà nước, tổ chức và cá nhân đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013. Bảo đảm công khai, minh bạch về nghĩa vụ và trách nhiệm trong thủ tục hành chính nhà nước và dịch vụ công để quyền tài sản được giao dịch thông suốt. Bảo đảm quyền quản lý, thu lợi của Nhà nước đối với tài sản công và quyền bình đẳng trong việc tiếp cận, sử dụng tài sản công của mọi chủ thể trong nền kinh tế. Nâng cao năng lực của các thiết chế và hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp dân sự, tranh chấp kinh tế trong bảo vệ quyền tài sản”[8].

Ba là, thúc đẩy CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức thích ứng với cách mạng công nghiệp lần thứ tư nhằm thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển

 Đẩy mạnh CNH, HĐH, ứng dụng nhanh thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến, đẩy mạnh phân công lao động và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao năng suất lao động xã hội.

Cải tạo, nâng cấp và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng.

Đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt chú ý các nhà quản lý, doanh nhân, đội ngũ người lao động lành nghề và nâng cao trình độ tư duy kinh tế, kiến thức kinh doanh cho kinh tế tư nhân.

Tận dụng tri thức và nguồn lực từ bên ngoài: tiếp cận hệ thống tri thức nhân loại về nền kinh tế thị trường thông qua hợp tác giáo dục - đào tạo, trao đổi học thuật, nghiên cứu, hội thảo... Học hỏi kinh nghiệm xây dựng nền kinh tế thị trường của các nước trong khu vực và trên thế giới thông qua tư vấn, tham quan, nghiên cứu mô hình...  Tận dụng cơ hội phát triển, lợi thế nước đi sau trong việc xây dựng mô hình phát triển thông qua hợp tác, liên doanh, chuyển giao...

Bốn là, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế

Tiếp tục nghiên cứu, đàm phán, ký kết, chuẩn bị kỹ các điều kiện thực hiện các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, tham gia các điều ước quốc tế trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư... Chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác cụ thể; kết hợp hiệu quả ngoại lực và nội lực, gắn hội nhập kinh tế quốc tế với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.

Rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm thực thi có hiệu quả các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam đã ký kết. Hoàn thiện thể chế để tận dụng cơ hội và phòng ngừa, giảm thiểu các thách thức do tranh chấp quốc tế, nhất là tranh chấp thương mại, đầu tư quốc tế. Hoàn thiện pháp luật về tương trợ tư pháp phù hợp với pháp luật quốc tế[9].

Năm là, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu quả quản lý của Nhà nước, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân

 “Nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chủ trương phát triển kinh tế - xã hội của Đảng; tăng cường lãnh đạo việc thể chế hóa và việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về kinh tế - xã hội; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng; lãnh đạo việc bố trí cán bộ và lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện của đội ngũ cán bộ hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Nâng cao năng lực và hiệu quả công tác tham mưu về kinh tế - xã hội ở các cấp, các ngành.

Nhà nước thể chế hóa nghị quyết của Đảng, xây dựng, tổ chức thực hiện pháp luật, chính sách, bảo đảm các loại thị trường ngày càng hoàn thiện và vận hành thông suốt, cạnh tranh công bằng, bình đẳng và kiểm soát độc quyền kinh doanh; tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh.

Đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát huy vai trò làm chủ của nhân dân; bảo đảm quyền tự do, dân chủ trong hoạt động kinh tế của người dân theo quy định của Hiến pháp, pháp luật và sự tham gia có hiệu quả của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng và giám sát việc thực hiện thể chế kinh tế và phát triển kinh tế - xã hội” [10].

Kết luận

Phát triển kinh tế thị trường là tất yếu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất, của xã hội hoá sản xuất trong tiến trình phát triển của nền sản xuất xã hội. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế xuất hiện và phát triển tất yếu trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Sự cần thiết phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đặt ra yêu cầu tất yếu phải điều chỉnh từ nhận thức đến hành động thực tiễn. Hy vọng rằng, với việc sử dụng mô hình kinh tế tổng quát mà Việt Nam đã lựa chọn - kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ sớm mang lại mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.

Tài liệu tham khảo:

1. TS. Hoàng Văn Cương - Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương: “Triển vọng phát triển kinh tế Việt Nam năm 2020”, http://tuyengiao.vn

2. PGS.TS Phạm Văn Dũng (chủ biên)(2009), "Tính phổ biến và tính đặc thù trong phát triển kinh tế thị trường", Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

3. PGS, TS. Nguyễn Thanh Tuấn - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa qua các văn kiện của Đảng trong thời kỳ đổi mới”, http://www.tapchicongsan.org.vn

4. Trương Đình Tuyển, Kinh tế thị trường hiện đại theo định hướng XHCN là gì?”, http://www.thesaigontimes.vn



[1] Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, http://tulieuvankien. dangcongsan.vn

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr.34-35.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, tr.25-26.

[4] Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, http://vtv.vn

[5] Hoàng Văn Cương - Lê Thị Thúy Nga, Triển vọng phát triển kinh tế Việt Nam năm 2020, http://tuyengiao.vn

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, tr 102.

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Sđd, tr.77.

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Sđd, tr.104-105.

[9] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Sđd, tr.110-111.

[10] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Sđd, tr.111-112.

Đọc thêm

Phát huy “Hào khí” Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới

Tác giả: Nguyễn Văn Nghĩa

(GDLL) - Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chiến dịch Điện Biên Phủ (13-3 đến 7-5-1954) đã giành thắng lợi vang dội, giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của thực dân Pháp, góp phần đưa hội nghị Giơ-ne-vơ đến thành công; là sự phát triển đến đỉnh cao của nghệ thuật quân sự, nghệ thuật chiến dịch Việt Nam. Từ “hào khí” chiến thắng Điện Biên Phủ, bài viết gợi mở những nội dung phát huy "hào khí" đó vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.

Tính độc đáo của nền đối ngoại, ngoại giao mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”

Tác giả: Bùi Giang Nam

(GDLL) - Trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam, nền đối ngoại, ngoại giao (bao gồm đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại Nhân dân) luôn giữ một vai trò hết sức quan trọng. Trên cơ sở phân tích đường lối đối ngoại của Việt Nam thời kỳ đổi mới và những thành tựu đã đạt được, bài viết làm sáng tỏ tính độc đáo của nền ngoại giao Việt Nam hiện nay, đó là nền đối ngoại, ngoại giao mang đậm bản sắc “Cây tre Việt Nam”.

Thực hiện chủ trương của Đảng về khuyến khích, tạo điều kiện phát triển các công ty, tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh

Tác giả: ThS Lê Quốc

(LLCT) - Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng”(1), chủ trương khuyến khích, tạo điều kiện phát triển các công ty, các tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh. Bài viết làm rõ vai trò của doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự đổi mới trong nhận thức và thực tiễn phát triển doanh nghiệp tư nhân trong thời kỳ đổi mới. Từ đó, đề xuất giải pháp phát triển các công ty và tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có sức cạnh tranh cao trong những năm tiếp theo.

Nâng cao phúc lợi xã hội cho nhân dân theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 8 khóa XIII

Tác giả: TS. Đỗ Văn Quân - ThS. Nguyễn Trọng Tuân

(TG) - Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh, một trong những giải pháp để bảo đảm cho sự tiến bộ và công bằng xã hội trở thành hiện thực trên đất nước ta là thực hiện tốt phúc lợi xã hội.

Nâng cao khả năng thích ứng của nguồn nhân lực Việt Nam trước yêu cầu Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Tác giả: Nguyễn Mai Phương

(GDLL) - Thế giới đã và đang chứng kiến những thay đổi to lớn về mặt khoa học, công nghệ do cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại. Bài viết nghiên cứu về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những yêu cầu đặt ra đối với nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay; Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng thích ứng của nguồn nhân lực Việt Nam trước yêu cầu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.