Từ
khóa: Tăng trưởng kinh tế, mô hình tăng trưởng kinh
tế theo chiều rộng, mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu, yếu tố đầu vào.

Nguồn: World Economic Outlook, 10/2019, Tổng cục
Thống kê và tổng hợp các dự báo.
Đặt vấn đề
Sau hơn 30 năm thực hiện đường lối đổi mới ở
Việt Nam, kinh tế vĩ mô của đất nước cơ bản ổn định, chất lượng tăng trưởng
kinh tế từng bước được cải thiện. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, nền
kinh tế Việt Nam còn nhiều hạn chế, yếu kém và tiềm ẩn nhiều rủi ro. Cơ cấu lại
nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng còn chậm. Mô hình tăng trưởng
dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo; tính tự chủ của nền
kinh tế còn thấp [1, tr.209-211]. Để đạt được những mục tiêu về
phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn tiếp theo việc phân tích, đánh giá
đúng thực trạng, xác định những thành tựu, hạn chế của mô hình tăng trưởng và
đề xuất khuyến nghị để tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam
trong thời gian tới có ý nghĩa cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
1. Khái quát về mô
hình tăng trưởng kinh tế
Mô
hình tăng trưởng kinh tế của một quốc gia hay một nền kinh tế là tập hợp những
yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế của quốc gia hay nền kinh tế đó. Mô hình
tăng trưởng kinh tế cho biết có những yếu tố nào dẫn đến tăng trưởng kinh tế
của một nền kinh tế nhất định. Mỗi quốc gia, trong những giai đoạn phát triển
khác nhau, tùy theo điều kiện cụ thể khác nhau, sẽ có mô hình tăng trưởng kinh
tế khác nhau [3, tr.58].
Mô
hình tăng trưởng kinh tế có thể được nhìn nhận từ nhiều khía cạnh khác nhau,
trong đó phổ biến nhất là: khía cạnh đầu vào (các yếu tố đầu vào của quá trình
sản xuất), khía cạnh đầu ra (các yếu tố đầu ra của quá trình sản xuất), khía
cạnh cấu trúc nền kinh tế (theo ngành, khu vực kinh tế) và khía cạnh thể chế
kinh tế.
Khi
xem xét mô hình tăng trưởng kinh tế ở khía cạnh đầu vào, các nhà kinh tế muốn
đề cập đến số lượng, chất lượng và sự kết hợp các yếu tố đầu vào trong quá
trình sản xuất. Theo quan điểm hiện đại, có 3 yếu tố đầu vào dẫn đến tăng
trưởng kinh tế, đó là: vốn (bao gồm cả yếu tố tài nguyên thiên nhiên đang được
sử dụng, gia nhập dưới dạng yếu tố vốn sản xuất), lao động và năng suất các
nhân tố tổng hợp (TFP). Và cũng nhìn từ khía cạnh này, mô hình tăng trưởng kinh
tế được phân chia thành hai loại hình: Mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều
rộng và Mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu. Mỗi mô hình có những đặc
trưng như sau:
-
Mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng có
đặc trưng cơ bản là tăng trưởng kinh tế dựa trên cơ sở gia tăng số lượng các
yếu tố đầu vào như vốn, lao động, tài nguyên mà không kèm theo tiến bộ công
nghệ. Mô hình này đáp ứng yêu cầu tăng trưởng nhanh trong giai đoạn đầu phát
triển của các nước đang phát triển. Song mô hình này cũng có nhiều hạn chế là
làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm môi trường, gia tăng chi phí cho
một đơn vị sản phẩm, nguy cơ lạm phát, bội chi ngân sách, gây bất ổn kinh tế vĩ
mô.
-
Mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu có
đặc trưng cơ bản là tăng trưởng kinh tế dựa trên cơ sở nâng cao hiệu quả sử
dụng các yếu tố đầu vào. Tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu dựa vào khoa học và
công nghệ hiện đại, với đa số lao động có trình độ học vấn và kỹ năng nghề
nghiệp cao, làm ra sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Mô hình này giúp khắc phục
tình trạng khan hiếm nguồn lực, giảm chi phí, tăng hiệu quả và sức cạnh tranh
của nền kinh tế, bảo vệ môi trường sinh thái, cải thiện phúc lợi xã hội, tạo ra
sự tăng trưởng bền vững, dài hạn.
2. Thực trạng mô hình
tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2016 - 2020 - nhìn từ khía
cạnh đầu vào
2.1. Phân tích các yếu tố
đầu vào đóng góp vào tăng trưởng
Theo Ngân hàng thế giới, tốc độ tăng GDP của
Việt Nam giai đoạn 2016-2019 đạt khá cao, ở mức bình quân 6,8%. Mức này cao hơn
hẳn mức trung bình của 5 năm 2011-2015 là 5,91%. (biểu đồ 1)
Biểu đồ 1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt
Nam giai đoạn 2016 - 2020

Nguồn:
https://vietnambiz.vn/loat-dau-an-noi-bat-cua-kinh-te-viet-nam-giai-doan-2016-2020-20210126174317902.htm
Với mức tăng trưởng kinh tế bình quân này, Việt Nam nằm
trong top 10 quốc gia tăng trưởng cao nhất. Mặc dù năm 2020 kinh tế chịu ảnh
hưởng nặng nề của dịch Covid-19, tăng trưởng GDP của Việt Nam vẫn đạt 2,91%,
thuộc hàng cao nhất thế giới. Việt Nam cũng là một trong số ít quốc gia đạt mức
tăng trưởng dương năm 2020.
* Sự tham gia của yếu tố
vốn
Giai đoạn 2001 - 2010, tỷ lệ vốn đầu tư thực hiện toàn xã
hội so với GDP bằng 41,6%. Đến giai đoạn 2011 - 2020, tỷ lệ này giảm xuống còn
32,9%. Việc huy động được nguồn vốn lớn đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế - xã hội. hiệu quả đầu tư được cải thiện đáng kể trong những năm gần đây với
nhiều năng lực sản xuất mới bổ sung cho nền kinh tế. (biểu đồ 2)
Biểu đồ 2: Hệ số hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
ở Việt Nam giai đoạn 2016 - 2020

Nguồn:
Tổng hợp từ Các báo cáo phân tích và dự báo thống kê năm 2020 của Tổng cục
Thống kê
Chỉ
số hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (hệ số ICOR) bình quân giai đoạn 2016-2019 đạt
6,13, thấp hơn so với hệ số 6,25 của giai đoạn 2011 - 2015. Sang năm 2020, do
ảnh hưởng tiêu cực của dịch Covid-19, hoạt động sản xuất kinh doanh của nền
kinh tế bị đình trệ, các dự án công trình hoàn thành đưa vào sử dụng chưa phát
huy được năng lực như nền kinh tế khi ở trạng thái bình thường nên ICOR năm
2020 đạt 14,28. Bình quân giai đoạn 2016 - 2020 hệ số ICOR đạt 7,04.
Trong
giai đoạn 2016 - 2020, vốn đầu tư vào khu vực nông, lâm nghiệp và
thủy sản chỉ chiếm khoảng 5,7% - 6,3% tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội
nhưng khu vực này tạo ra 14% - 16% GDP của cả nước; trong khi đó, khu vực công
nghiệp và xây dựng tuy tạo ra 32% - 34% GDP nhưng vốn đầu tư của khu vực này
chiếm tới 43,5% - 46% tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội; khu vực dịch vụ
tạo ra 41% - 42% GDP nhưng vốn đầu tư chiếm tới 48,1% - 50,3% [6, tr.25]. Điều
này cho thấy, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đầu tư ít nhưng mang lại
hiệu quả cao nhất, trong khi khu vực công nghiệp, xây dựng và khu vực dịch vụ
tuy có đóng góp lớn đối với tăng trưởng kinh tế nhưng lượng vốn đầu tư vào khu
vực này ở mức rất cao [6, tr.25]. Đây là một vấn đề cần lưu tâm về hiệu quả sử
dụng vốn đầu tư theo ngành, lĩnh vực.
* Sự tham gia của yếu tố
lao động
Trong
giai đoạn 2016 - 2020, lao động cùng yếu tố vốn đóng góp bình quân vào tăng
trưởng kinh tế là 54,28%. Năng suất lao động (NSLĐ) có sự cải thiện
đáng kể theo hướng tăng đều qua các năm. Theo giá hiện hành, NSLĐ của toàn nền
kinh tế năm 2016 đạt 84,4 triệu đồng/lao động; năm 2017 đạt 93,2 triệu đồng/lao
động; năm 2018 đạt 102,1 triệu đồng/lao động; năm 2019 đạt 110,5 triệu đồng/lao
động và năm 2020 đạt 117,4 triệu đồng/lao động. Tính theo giá so sánh năm 2010,
bình quân giai đoạn 2016 - 2020, NSLĐ tăng 5,79%/năm, cao hơn so với tốc độ
tăng bình quân 4,27%/năm của giai đoạn 2011 - 2015 và cao hơn mục tiêu tăng
trưởng bình quân 5%/năm trong giai đoạn 2016 - 2020. So với các quốc gia trong
khu vực ASEAN, thời gian qua Việt Nam là quốc gia có tốc độ tăng NSLĐ cao. Tính
chung giai đoạn 2011-2019, NSLĐ theo sức mua tương đương năm 2017 (PPP 2017)
của Việt Nam tăng trung bình 5,1%/năm, cao hơn so với mức tăng bình quân của
Xin-ga-po (2%/năm); Ma-lai-xi-a (2,3%/năm); Thái Lan (3,2%/năm); Phi-li-pin
(4,4%/năm); In-đô-nê-xi-a (3,4%/năm) [4.tr. ]. (biểu
đồ 3)
Biểu
đồ 3: Năng suất lao động và Tốc độ tăng năng suất lao động giai đoạn 2016
- 2020

Nguồn:
Các Báo cáo phân tích và dự báo thống kê năm 2020 của Tổng cục Thống kê
Tuy
nhiên, mức NSLĐ của Việt Nam hiện nay vẫn rất thấp so với các nước trong khu
vực. Chênh lệch về mức NSLĐ giữa Việt Nam với các nước vẫn tiếp tục gia tăng
[4]. Điều này cho thấy khoảng cách và thách thức nền kinh tế Việt Nam phải đối
mặt để có thể bắt kịp mức NSLĐ của các nước.
* Sự tham gia của yếu tố
năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP)
Tăng trưởng kinh tế dần dịch chuyển sang chiều sâu, thể
hiện ở mức đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng
của nền kinh tế ngày một lớn. Trong giai đoạn 2016 - 2020, đóng góp của TFP vào
tăng trưởng kinh tế đạt bình quân 45,21%, vượt mục tiêu đặt ra của giai đoạn
(30 - 35%), và cao hơn nhiều so với mức bình quân 32,84% của giai đoạn 2011 -
2015, trong đó năm 2016 đạt 44,87%; năm 2017 đạt 46,09%; năm 2018 đạt 44,76%;
năm 2019 đạt 47,71% và năm 2020 đạt 37,48%. (biểu đồ 4)
Biểu đồ 4: Đóng góp của năng suất các nhân tố
tổng hợp (TFP)
vào tăng trưởng giai đoạn 2016 - 2020

Nguồn:
https://vietnambiz.vn/loat-dau-an-noi-bat-cua-kinh-te-viet-nam-giai-doan-2016-2020-20210126174317902.htm
Trong
giai đoạn này, nguồn vốn đầu tư công đã đi đúng hướng, tập trung vào phát triển
cơ sở hạ tầng, giao thông. Nhiều doanh nghiệp đã tích cực đổi mới tổ chức quản
lý, đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ, cải tiến quy trình sản xuất, nâng
cao trình độ và tay nghề của người lao động nên TFP trong giai đoạn 2016 - 2020
đã có sự tiến bộ rõ rệt so với giai đoạn 2011 - 2015.
2.2. Đánh giá khái quát
Trong
giai đoạn 2016 - 2020, mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam đã có sự chuyển
biến tích cực, trong đó đáng chú ý là sự gia tăng đáng kể của năng suất các
nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng của nền kinh tế. Vốn và lao động có điều
chỉnh giảm về tỷ trọng và cải thiện về hiệu quả, năng suất.
Mặc dù vậy, vốn và lao động - các nhân tố tuy quan trọng
nhưng chủ yếu mang ý nghĩa đối với mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng,
vẫn đang đóng góp chủ yếu vào tăng trưởng kinh tế. Hiệu quả sử dụng vốn tuy có
tăng nhưng không đáng kể và nhìn tổng thể thì phản ánh xu hướng đi ngang, thậm
chí là giảm vào năm cuối của thời kỳ đánh giá (năm 2020) thể hiện ở hệ số ICOR
rất cao. Năng suất lao động, tuy có tốc độ tăng ấn tượng nhưng khi so sánh với
các nước trong khu vực thì vẫn còn khoảng cách khá xa.
Một cách khái quát nhất, có thể thấy mô hình tăng trưởng
kinh tế Việt Nam thời gian qua đã có những sự vận động tích cực, chuyển đổi
theo hướng từ mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng sang mô hình tăng
trưởng kinh tế theo chiều sâu. Tuy nhiên, tốc độ chuyển đổi còn chậm và về cơ
bản thì mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam vẫn cho thấy tính chất của một mô
hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng nhiều hơn.
3. Một số khuyến nghị
Văn
kiện Đại hội XIII của Đảng đã xác định cần phải: “đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng
trưởng”, “chuyển mạnh” nền kinh tế sang mô hình tăng trưởng mới, “tạo bứt phá”
trong việc nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền
kinh tế. Để tạo dựng một mô hình tăng
trưởng kinh tế theo chiều sâu trong giai đoạn tiếp theo theo định hướng của
Đảng, Chính phủ cần tập trung vào các giải pháp sau:
* Hoàn thiện thể chế kinh
tế thị trường định hướng XHCN
Trong các định hướng đổi mới, đổi mới về
thể chế là quan trọng nhất. Sự khác biệt của một nước phát triển trung bình,
kém phát triển và nước phát triển trước hết là do thể chế. Đây được coi là yếu
tố quyết định quan trọng của năng lực cạnh tranh quốc gia để nền kinh tế của
nước ta chuyển từ giai đoạn kinh tế dựa vào đầu tư sang nền kinh tế dựa vào đổi
mới sáng tạo - Nền kinh tế tri thức. Chính phủ cần tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng thể chế, pháp luật gắn
với nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi, bảo đảm chấp hành pháp luật nghiêm
minh; bảo đảm đầy đủ quyền tự do, an toàn trong hoạt động kinh doanh; huy động,
phân bổ, sử dụng hiệu quả các nguồn lực theo nguyên tắc thị trường.
* Phát triển khoa học, công
nghệ và đổi mới sáng tạo
Để
gia tăng sự đóng góp của TFP vào tăng trưởng, cần phát triển mạnh khoa học,
công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, được coi là động lực chính của
tăng trưởng. Trong đó có một số điểm cần chú ý như sau: (1) Lấy doanh nghiệp
làm trung tâm, thúc đẩy phát triển mô hình kinh doanh mới, kinh tế số, xã hội
số; cho phép thực hiện cơ chế thử nghiệm chính sách mới thúc đẩy triển khai và
ứng dụng công nghệ mới, đổi mới sáng tạo, mô hình kinh doanh mới; (2) Phát
triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, hệ
sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, lấy doanh nghiệp làm trung tâm; (3)
Phát triển mạnh thị trường khoa học, công nghệ; (4) Đẩy mạnh hội nhập và hợp
tác quốc tế về khoa học, công nghệ; phát triển mạng lưới kết nối nhân tài người
Việt; (5) Duy trì xếp hạng về chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) thuộc nhóm
3 nước dẫn đầu ASEAN.
* Phát triển nguồn nhân
lực, giáo dục và đào tạo
Đẩy
mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu
cầu phát triển đất nước trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội
nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu, rộng. Tiếp tục đổi mới đồng bộ mục tiêu,
nội dung, chương trình, phương thức, phương pháp giáo dục đào tạo, tạo chuyển
biến mạnh mẽ về chất lượng giáo dục đào tạo, phát triển con người toàn diện.
Chú trọng xây dựng, phát triển đội ngũ chuyên gia, đội ngũ nhân lực kỹ thuật và
quản trị công nghệ, quản trị doanh nghiệp. Đổi mới chế độ tuyển dụng, sử dụng, trọng dụng nhân tài trong khoa học -
công nghệ, đổi mới sáng tạo, trong quản lý, quản trị Nhà nước. Đổi mới, nâng
cao chất lượng giáo dục đào tạo nghề nghiệp, đào tạo lại lực lượng lao động
phải chuyển đổi ngành nghề do quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới
công nghệ, hình thành đội ngũ lao động lành nghề, có kỹ năng làm việc, tư duy
sáng tạo, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
* Phát
triển kết cấu hạ tầng của nền kinh tế
Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện đột phá chiến lược về xây
dựng hệ thống kết cấu hạ tầng, trong đó tập trung đầu tư các dự án hạ tầng
trọng điểm quốc gia, quy mô lớn, nhất là về giao thông, thủy lợi, năng lượng,
hạ tầng kỹ thuật số để khắc phục cơ bản những “điểm nghẽn” cản trở sự phát triển,
tăng cường kết nối với các vùng, các trung tâm kinh tế trong nước, kết nối với
khu vực và quốc tế. Phát triển hạ tầng công nghệ thông tin, truyền thông đạt
trình độ tiên tiến của khu vực ASEAN, Internet băng thông rộng phủ 100% các xã,
phát triển mạng 5G, xây dựng hệ thống trung tâm dữ liệu quốc gia, các trung tâm
dữ liệu ngành, vùng, địa phương kết nối đồng bộ và thống nhất; bảo đảm hạ tầng
kỹ thuật an toàn, an ninh thông tin.
* Đổi mới, nâng cao hiệu
quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Giải
pháp này rất cần thiết vì doanh nghiệp là lực lượng chủ công, trực tiếp thực
hiện đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế. Các nội dung cụ thể gồm: Hoàn tất
việc sắp xếp lại, đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà
nước. Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho việc thành lập, hoạt động, phát triển,
khuyến khích sáng tạo, nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp tư nhân.
Kết luận
Tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững là mục tiêu cơ bản, xuyên suốt mà mọi quốc gia
theo đuổi. Để đạt được mục tiêu này, một mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều
sâu, với tỷ trọng cao của năng suất các nhân tố tổng hợp và sử dụng hiệu quả
các nguồn lực vốn, lao động là nhân tố quan trọng có ý nghĩa quyết định. Ở Việt
Nam, mô hình tăng trưởng kinh tế được đánh giá vẫn chưa phải là một mô hình
tăng trưởng theo chiều sâu như mong muốn. Tuy nhiên với những chuyển biến mạnh
mẽ và những kết quả đạt được đáng ghi nhận trong đổi mới mô hình tăng trưởng
kinh tế ở Việt Nam thời gian qua, cùng với những quan điểm, đường lối chỉ đạo
đúng đắn của Đảng, sự vào cuộc quyết liệt của toàn bộ hệ thống chính trị, có
thể tin tưởng rằng Việt Nam đang đi đúng hướng trong đổi mới mô hình tăng
trưởng kinh tế góp phần thực hiện mục tiêu mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
XIII đã đề ra.
Tài
liệu tham khảo:
1. Đảng
cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021.
2. Anh
Đào, Đức Bùi (2021), Loạt dấu ấn nổi bật của kinh tế Việt
Nam giai đoạn 2016 - 2020 https://vietnambiz.vn/loat-dau-an-noi-bat-cua-kinh-te-viet-nam-giai-doan-2016-2020-20210126174317902.htm.
3. Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2018), Kinh tế phát triển, Giáo
trình Cao cấp lý luận chính trị, Nxb Lý luận chính trị.
4. Ngân
hàng thế giới (World bank), Cơ sở dữ liệu các chỉ số phát triển thế giới, 2017.
5. Quách
Đức Pháp (2012), Mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam: Thực trạng
và sự lựa chọn cho thời gian tới, Tạp chí Tài chính online,
https://tapchitaichinh.vn.
6. Tổng
cục Thống kê (2021), Các báo cáo phân tích và dự báo thống kê năm 2020.