Từ khóa: Chủ nghĩa Mác - Lênin; Đảng
Cộng sản Việt Nam; đường lối văn hóa; thời kỳ đổi mới.

Đặt vấn đề
Thắng lợi của cách
mạng Việt Nam hơn 90 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng đã chứng minh rằng: Nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam là chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Những thành tựu đạt được trong sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ đất nước là nhờ sự kiên
định, nắm vững và vận dụng sáng tạo, đúng đắn chủ nghĩa Mác - Lênin trong thực
tiễn. Trên lĩnh vực văn hóa, Đảng đã có những chủ trương phù hợp để văn hóa thực
sự trở thành sức mạnh của dân tộc, tạo dựng niềm tin của toàn dân đối với Đảng
và tương lai của dân tộc.
1. Quan niệm
về vai trò của văn hóa
Trong quan niệm của
chủ nghĩa Mác - Lênin văn hóa được hiểu như là một hình thái ý thức xã hội, một
bộ phận của kiến trúc thượng tầng. Trong thư gửi V.Bacguix ngày 25 - 01 - 1894, Ph.Ăngghen viết: “Sự phát triển của
chính trị, pháp luật, tôn giáo, văn học và nghệ thuật... đều xây dựng trên cơ sở phát triển kinh tế. Nhưng tất cả chúng đều tác động lẫn nhau và tác động đến cơ
sở kinh tế”[2, tr.446].
Như vậy, văn hóa mà ở đây Ph.Ăngghen nói là văn học và nghệ thuật là một bộ phận
của kiến trúc thượng tầng trong mối quan hệ với cơ sở hạ tầng thì vừa chịu sự
chi phối, quyết định của cơ sở hạ tầng vừa tác động trở lại cơ sở hạ tầng.
Kế thừa và phát triển
quan niệm văn hóa này của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong Đề cương văn hóa Việt
Nam (năm 1943), Đảng quan niệm văn hóa bao gồm tư tưởng, học thuật (khoa học,
giáo dục) và nghệ thuật. Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII lần đầu tiên Đảng mở rộng
quan niệm về văn hóa, văn hóa bao gồm trên 8 lĩnh vực không chỉ là văn học nghệ
thuật mà còn là xây dựng môi trường văn hóa, tư tưởng, đạo đức, lối sống, phát
triển giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, hệ thống thông tin đại chúng, bảo tồn
và phát huy các di sản văn hóa và văn hóa các dân tộc thiểu số, chính sách văn
hóa với tôn giáo, mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa, hoàn thiện thể chế văn
hóa. Với các nội dung này, văn hóa thuộc về kiến trúc thượng tầng xã hội.
Thời kỳ đổi mới,
cùng với những nhận thức mới của thế giới về phát triển bền vững, trong đó có sự
tham gia của văn hóa khi UNESCO đã phát động thập kỷ thế giới phát triển văn
hóa (1988 - 1997), cùng với việc vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng
ngày càng nhận thức đầy đủ hơn về vai trò của văn hóa. Nếu Đại hội VI, vai trò
của văn hóa vẫn nằm trong khuôn khổ của cuộc cách mạng tư tưởng, văn hóa tác động
đến tư tưởng, tình cảm của con người - chủ thể xây dựng xã hội thì Đại hội VIII
và sau đó là Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm, Ban Chấp hành Trung ương khóa
VIII (1998) đã thấy được vai trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”[4, tr.55]. Từ chỗ khẳng định vai trò
của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội đến chỗ nhận thức văn hóa là
một trong ba trụ cột của phát triển bền vững đất nước là một bước phát triển mới
về nhận thức. Tại Hội nghị lần thứ 10 khóa IX, lần đầu tiên Đảng đưa quan điểm
chỉ đạo: “Bảo đảm gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng,
chỉnh đốn Đảng là then chốt với không ngừng nâng cao văn hóa - nền tảng tinh thần
của xã hội; tạo nên sự phát triển đồng bộ của 3 lĩnh vực trên chính là điều kiện
quyết định bảo đảm sự cho phát triển bền vững của đất nước”[1, tr.50]. Như
vậy, Đảng đã nhận thức phát triển bền vững là sự phát triển đồng bộ của nhiều yếu
tố kinh tế, văn hóa, chính trị. Phát triển văn hóa thúc đẩy sự phát triển kinh
tế và chính trị. Đồng thời kinh tế phát triển, chính trị dân chủ, ổn định tạo
điều kiện, cơ sở cho văn hóa phát triển. Hội nghị trung ương 9 khóa XI, Đảng khẳng
định văn hóa là nguồn nội sinh cho sự phát triển bền vững đất nước: “Văn hóa là
nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất
nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”[8, tr.159]. Tại
Đại hội XII, Đảng bổ sung một nội dung mới về vai trò của văn hóa: “Văn hóa thực
sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan
trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc”[9, tr.126].
Như vậy, văn hóa không chỉ bảo đảm sự phát triển bền vững đất nước mà còn góp
phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng tiếp tục có những
bổ sung, phát triển khi nói đến vai trò của văn hóa: “Xây dựng, phát huy yếu tố
văn hoá để thực sự là đột phá phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế”[10, tr.47].
Như vậy, Đại hội XIII không những khẳng định vai trò của văn hóa đối với sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà còn nói đến vai trò của văn hóa trong hội
nhập quốc tế. Một điểm mới cần lưu ý khi Đảng đánh giá về vai trò của văn hóa
là đột phá phát triển kinh tế - xã hội. Đột phá ở đây có nghĩa là chủ đạo, trọng
yếu, then chốt, quan trọng nhất. Để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội đất nước thì cần phải huy động nhiều nguồn lực, động lực trong đó văn hóa
chính là nguồn lực đột phá, tức là nguồn lực quan trọng nhất.
2. Bảo đảm sự lãnh
đạo của Đảng đối với văn hóa, đồng thời tôn trọng quyền tự do, dân chủ trong sáng
tạo văn hóa
Tính Đảng trong văn
hóa theo V.I.Lênin là một nguyên tắc quan trọng cần phải bảo đảm: “Sự nghiệp
văn học phải thành một bộ phận trong sự nghiệp của toàn thể giai cấp vô sản, phải
thành “một cái bánh xe nhỏ và một cái đinh ốc” trong một bộ máy dân chủ - xã hội
vĩ đại, thống nhất, do toàn đội tiên phong giác ngộ của toàn bộ giai cấp công
nhân điều khiển. Sự nghiệp văn học phải thành một bộ phận khăng khít của công
tác có tổ chức, có kế hoạch, thống nhất, của Đảng dân chủ - xã hội”[13, tr.123].
Tuy nhiên, V.I.Lênin cũng lưu ý Đảng lãnh đạo văn hóa nhưng không phải can thiệp
thô bạo, mệnh lệnh, hành chính vào hoạt động văn hóa mà vẫn phải bảo đảm quyền
tự do sáng tạo: “Đương nhiên, sự nghiệp văn học ít thích hợp nhất đối với một sự
cào bằng máy móc, đối với sự san bằng, đối với việc số đông thống trị số ít.
Đương nhiên, trong sự nghiệp đó tuyệt đối phải bảo đảm phạm vi hết sức rộng rãi
cho sáng kiến cá nhân, cho khuynh hướng cá nhân, cho tư tưởng và sức tưởng tượng,
cho hình thức và nội dung”[13,
tr.124].
Nhận thức rõ quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng lãnh đạo văn hóa nhưng phải bảo đảm quyền
tự do sáng tạo của người nghệ sĩ. Ngay trong Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII, Đảng
khẳng định: “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo hướng vừa bảo đảm cho
văn hóa, văn học nghệ thuật, báo chí phát triển đúng định hướng chính trị, tư
tưởng của Đảng, vừa bảo đảm thực hiện quyền tự do, dân chủ cá nhân trong sáng tạo
văn hóa, văn học, nghệ thuật, khoa học và công nghệ trên cơ sở phát huy tính tự
giác cao với mục đích đúng đắn”[8, tr.1114]. Đảng không can thiệp trực
tiếp vào nội dung, hình thức của các sáng tạo, hoạt động văn hóa, những tìm
tòi, sáng tạo riêng của các văn nghệ sĩ, các nhà hoạt động văn hóa đều được tôn
trọng, Đảng lãnh đạo văn hóa là để bảo đảm cho các hoạt động văn hóa đúng định
hướng chính trị của Đảng, phục vụ cho nhiệm vụ, mục tiêu chung của dân tộc, đất
nước là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, mang lại hạnh phúc cho tất cả mọi
người. Đảng lãnh đạo văn hóa để ngăn chặn những hoạt động văn hóa đi ngược lại
với lợi ích của nhân dân, của dân tộc, với mục tiêu chủ nghĩa xã hội. Nhận thức
sâu hơn về vấn đề bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với văn hóa, Đảng Cộng sản
Việt Nam cho rằng cần phải khắc phục hai khuynh hướng sai lầm đó là: “Khắc phục
tình trạng buông lỏng sự lãnh đạo hoặc mất dân chủ, hạn chế tự do sáng tạo”[8, tr.170].
Đây là yêu cầu kép luôn song hành với nhau, không được loại trừ nhau, quá đề
cao tự do trong hoạt động văn hóa dẫn tới trái đường lối văn hóa của Đảng, mất
vai trò lãnh đạo của Đảng hay Đảng lãnh đạo văn hóa nhưng can thiệp quá sâu,
quá cụ thể, chi tiết dẫn tới mất đi quyền tự do, dân chủ của người sáng tạo đều
cần phải tránh.
Trong việc bảo đảm quyền
tự do dân chủ trong sáng tạo văn hóa, Đảng có sự bổ sung, phát triển so với chủ
nghĩa Mác - Lênin, ngay trong Đại hội VIII, Đảng khẳng định: “Bảo đảm dân chủ,
tự do cho mọi sự sáng tạo và hoạt động văn hóa, vun đắp các tài năng, đồng thời
đề cao trách nhiệm của văn nghệ sĩ trước công chúng, dân tộc và thời đại”[8, tr.72]. Như
vậy quyền tự do, dân chủ trong sáng tạo của văn nghệ sĩ phải gắn liền với trách
nhiệm của họ trước dân tộc, thời đại chứ không phải tự do không giới hạn tới mức
đi ngược lại lợi ích của nhân dân, đất nước.
3. Kế thừa giá trị
văn hóa dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại
Khi xây dựng nền
văn hóa xã hội chủ nghĩa, V.I.Lênin đã kịch liệt phê phán một số quan điểm
trong đất nước Liên Xô lúc đó cho rằng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa phải đoạn
tuyệt với tất cả các nền văn hóa trước đó: “Văn hoá vô sản không phải bỗng
nhiên mà có, nó không phải những người tự cho mình là chuyên gia về văn hoá vô
sản nghĩ ra. Đó là điều hoàn toàn ngu ngốc. Văn hoá vô sản phải là sự phát triển
hợp quy luật của tổng số kiến thức mà loài người đã tích luỹ được dưới ách thống
trị của xã hội tư sản, xã hội của bọn địa chủ và xã hội của bọn quan liêu. Tất
cả những con đường đó, lớn và nhỏ, đã, đang và sẽ tiếp tục đưa tới văn hoá vô sản”[12, tr.361].
Vận dụng và kế thừa
tư tưởng này của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam, Đảng
khẳng định nền văn hóa Việt Nam phải kế thừa những giá trị quý báu của văn hóa
dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại: “Đi vào kinh tế thị trường, mở
rộng giao lưu quốc tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tiếp thu những tinh hoa của
nhân loại, song phải luôn coi trọng những giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc,
quyết không được tự đánh mất mình, trở thành bóng mờ hoặc bản sao chép của người
khác”[3, tr.30].
Điểm sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam chính là làm rõ mối quan hệ giữa giữ
gìn bản sắc văn hóa dân tộc với tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại: “Chỉ có biết
giữ gìn, khai thác, phát triển và nâng cao bản sắc riêng của nền văn hóa dân tộc
thì mới có được giá trị bản thân trong tiếp xúc và đối thoại với các nền văn
hóa khác, và cũng chỉ trên cơ sở đó mới tiếp thu được những tinh hoa văn hóa thế
giới”[6, tr.154].
4. Xác định văn
hóa là một mặt trận
V.I.Lênin nhận thức
rất rõ những khó khăn trong cuộc cách mạng văn hóa, xây dựng nền văn hóa mới xã
hội chủ nghĩa. Do đặc thù của lĩnh vực văn hóa được hình thành bồi đắp trong thời
gian rất lâu dài, đã ăn sâu vào tâm lý, thói quen, phong tục tập quán của nhân
dân nên để thay đổi nền văn hóa cũ, xây dựng nền văn hóa mới là một quá trình rất
lâu dài. Đồng thời, để xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa thì phải xây dựng
được cơ sở vật chất cho nền văn hóa đó chính là nền đại công nghiệp có khả năng
mở rộng sản xuất vô hạn, có trình độ lực lượng sản xuất phát triển rất cao: “Nhưng
cuộc cách mạng văn hóa ấy, đối với chúng ta, có những khó khăn không thể tưởng
tượng nổi, về mặt thuần túy văn hóa (chúng ta bị mù chữ) cũng như về mặt vật chất
(bởi vì muốn trở thành những người có văn hóa thì tư liệu vật chất để sản xuất
phải phát triển tới mức nào đó, chúng ta phải có một cơ sở vật chất nhất định
nào đó”[13, tr.429].
Vận dụng tư tưởng của V.I.Lênin, tại Nghị quyết trung ương 5 khóa VIII, Đảng khẳng
định xây dựng nền văn hóa mới ở Việt Nam là một quá trình lâu dài cần phải kiên
trì, bền bỉ với những biện pháp, lộ trình phù hợp: “Bảo tồn và phát huy những
di sản văn hóa tốt đẹp của dân tộc, sáng tạo nên những giá trị văn hóa mới xã hội
chủ nghĩa, làm cho những giá trị ấy thấm sâu vào cuộc sống toàn xã hội và mỗi
con người, trở thành tâm lý và tập quán tiến bộ, văn minh là một quá trình cách
mạng đầy khó khăn, phức tạp, đòi hỏi nhiều thời gian”[8, tr.92].
Theo V.I.Lênin, xây
dựng nền văn hóa mới phải kết hợp giữa xây và chống, bên cạnh việc xây dựng những
giá trị, chuẩn mực mới cần phải đấu tranh chống lại những tư tưởng, tập quán cũ
đã lạc hậu, lỗi thời của các nền văn hóa trước đồng thời chống lại hệ tư tưởng
tư sản đối lập với hệ tư tưởng vô sản - yếu tố chi phối, chủ đạo trong nền văn
hóa mới. V.I.Lênin cho rằng: “Những tập quán cũ, những lề thói cổ hủ do chế độ
cũ để lại, những lề thói và tập quán của kẻ tư hữu, chúng đã thấm sâu vào quần
chúng đông đảo”[11,
tr.107] vì vậy không dễ để xóa bỏ được chúng.
Những tư tưởng của
chủ nghĩa Mác - Lênin về đấu tranh chống lại kẻ địch trên mặt trận tư tưởng,
văn hóa hiện nay vẫn còn nguyên giá trị. Ngay từ Đại hội VI, Đảng đã nhấn mạnh
nhiệm vụ đấu tranh chống lại âm mưu lợi dụng văn hóa để chống phá cách mạng của
các thế lực thù địch: “Làm thất bại âm mưu và hành động của các thế lực thù địch
biến văn hóa, văn nghệ thành phương tiện gieo rắc tâm lý bi quan và lối sống sa
đọa”[8, tr.59].
Tinh thần văn hóa cũng là một mặt trận, phải kiên trì, bền bỉ: “tỉnh táo, đấu
tranh khôn khéo có hiệu quả chống lại các âm mưu và thủ đoạn của các thế lực đế
quốc và phản động dùng văn hóa, nghệ thuật là công cụ chống phá sự nghiệp cách
mạng của nhân dân ta”[5,
tr.623], “Phải tiến hành kiên trì cuộc đấu tranh bài trừ các hủ tục, các thói
hư tật xấu, nâng cao tính chiến đấu, chống mọi mưu toan lợi dụng văn hóa để thực
hiện diễn biến hòa bình”[7,
tr.93] được Đảng khẳng định nhiều lần trong các văn kiện,
nghị quyết.
5. Quyền hưởng thụ
văn hóa của người dân và vai trò của đội ngũ văn, nghệ sĩ
Chủ nghĩa Mác -
Lênin khẳng định mục đích của nền văn hóa trong các xã hội có đối kháng giai cấp là: “tất cả trí tuệ
của loài người, tất cả thiên tài của con người chỉ là để đem lại cho một số người
này toàn bộ lợi ích của kỹ thuật và văn hóa, và tước đoạt của những người khác
những cái cần thiết nhất như: giáo dục và tiến bộ”[13, tr.349]. Do đó, văn hóa xã hội
chủ nghĩa trên cơ sở kinh tế là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất sẽ bảo đảm
công bằng trong thụ hưởng các giá trị văn hóa. Mọi người dân không chỉ được tham
gia vào các hoạt động văn hóa mà còn được quyền thụ hưởng các thành quả, giá trị
văn hóa của xã hội. Đây được coi là yếu tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa
trong phát triển văn hóa. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “bảo đảm
công bằng về cơ hội và thụ hưởng văn hóa. Khắc phục sự chênh lệch về trình độ
phát triển và đời sống văn hóa giữa các vùng, miền, các giai tầng xã hội”[10, tr.144].
Để xây dựng nền văn
hóa mới, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định cần phải quan tâm đến đội ngũ trí thức
mà cụ thể ở đây chính là đội ngũ giáo viên: “Chúng ta không quan tâm hoặc còn
quan tâm rất ít đến việc nâng cao địa vị người giáo viên nhân dân lên trình độ
xứng đáng, mà thiếu cái đó, thì không thể nói đến một nền văn hóa nào cả - dù
đó là tư sản đi nữa, chứ đừng nói đến văn hóa vô sản”[11, tr.145]. Kế thừa quan điểm này của
chủ nghĩa Mác - Lênin, trong công cuộc đổi mới, Đảng khẳng định đội ngũ trí thức
(văn nghệ sĩ, các nhà giáo, nhà hoạt động văn hóa...) có vai trò quan trọng
trong xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam. Văn hóa vốn là hoạt động
tinh thần, do đó luôn gắn chặt với đội ngũ trí thức. Bằng lao động trí tuệ mang
tính chuyên nghiệp, đội ngũ trí thức, nhất là trí thức văn nghệ sĩ đã sáng tạo
ra những sản phẩm văn hóa, những phát minh khoa học, những tác phẩm văn học,
nghệ thuật, những công trình khoa học gồm nhiều loại hình... góp phần rất quan
trọng cho đời sống tinh thần của xã hội, có khả năng định hướng tư tưởng, xây dựng
đạo đức, lối sống của con người và xã hội. Vì vậy, trong suốt 35 năm đổi mới,
quan điểm xuyên suốt của Đảng là cần phải quam tâm đến đội ngũ văn nghệ sĩ:
“Xây dựng và thực hiện các chính sách, chế độ đào tạo, bồi dưỡng, chăm lo đời sống
vật chất, tinh thần, tạo điều kiện để đội ngũ những người hoạt động văn hóa,
văn học, nghệ thuật sáng tạo nhiều tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ
thuật”[7, tr.225].
Khi đội ngũ văn nghệ sĩ sống được bằng nghề, có đời sống vật chất đầy đủ, không
bị tác động vật chất đến hoạt động sáng tác và những cống hiến của họ được ghi
nhận, tôn vinh sẽ là cơ sở để tạo ra nhiều tác phẩm có giá trị, đóng góp lớn
cho nền văn hóa dân tộc. Những quan điểm này của Đảng chính là sự kế thừa, bổ
sung quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Kết luận
Tựu trung lại, có thể thấy nhiều nội
dung trong quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về văn hóa vẫn còn nguyên giá trị
trong bối cảnh hiện nay, đang được Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa, bổ sung,
phát triển trong đường lối văn hóa. Và chính đường lối văn hóa đúng đắn của Đảng
là một trong những nguyên nhân dẫn đến những thành tựu trong phát triển văn hóa
Việt Nam thời kỳ đổi mới.
Tài liệu tham khảo:
[1] Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2004), Tài liệu nghiên cứu Kết luận Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung
ương khóa IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[2] C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập,
tập 21, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
[4] Đảng Cộng
sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ
năm Ban chấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
[5] Đảng Cộng
sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng toàn tập,
tập 53, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[6] Đảng Cộng
sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng toàn tập,
tập 54, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[7] Đảng Cộng
sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
[8] Đảng Cộng
sản Việt Nam (2015), Văn kiện của Đảng về văn
hóa, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật,
Hà Nội.
[9] Đảng Cộng
sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
[10] Đảng Cộng
sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
[11]V.I.Lênin (1970), Về văn hóa
và cách mạng văn hóa, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva.
[12]
V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 41, Nxb. Tiến bộ,
Mátxcơva.
[13]
V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 12, tập 12, tập 45,
tập 24, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva.