Từ khóa: Công tác
kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng; một số điểm mới về công tác
kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng; Quy định số 22-QĐ/TW.

Toàn cảnh
Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác kiểm tra, giám sát của Đảng năm 2019, triển
khai nhiệm vụ năm 2020 (Ảnh: VOV.VN)
Đặt vấn đề
Ngày 28/7/2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã thay mặt
Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII ký ban hành Quy định số 22-QĐ/TW Về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng
(Quy định số 22-QĐ/TW) thay thế Quy định số 30-QĐ/TW, ngày 26/7/2016 của Ban
Chấp hành Trung ương khóa XII Về thi hành
Chương VII và Chương VIII Điều lệ Đảng về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật
của Đảng. Quy định số 22-QĐ/TW có một số điểm mới bổ sung, thay thế được
thể hiện trong từng điều khoản cụ thể.
1. Quy định chung
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng
Về
đối tượng áp dụng của Quy định này đã cập nhật từ một số văn bản của Đảng, Nhà
nước và thực tiễn công tác phòng, chống tham nhũng hiện nay, bảo đảm đối tượng
áp dụng được bao phủ rộng hơn, tránh bỏ sót một số trường hợp cụ thể như những
cán bộ đã nghỉ việc, nghỉ hưu. Cụ thể: “Quy
định này áp dụng đối với tổ chức đảng và đảng viên, bao gồm cả tổ chức đảng đã
hết nhiệm kỳ hoạt động, đã giải thể hoặc thay đổi do chia tách, sáp nhập về mặt
tổ chức; đảng viên đã chuyển công tác, nghỉ việc, nghỉ hưu”.
Điều 2. Nguyên tắc trong công tác kiểm tra, giám sát và
kỷ luật đảng
Trong Điều
này, Quy định số 22-QĐ/TW bổ sung một số nội dung trong Văn kiện Đại hội XIII của
Đảng, thể hiện rõ quyết tâm bảo vệ cán bộ và quyết tâm chính trị cao trong xử
lý kỷ luật nghiêm minh, cụ thể: “Công
tác kiểm tra, giám sát phải kịp thời phát hiện nhân tố mới, tích cực để phát
huy, phải bảo vệ cái đúng, bảo vệ người tốt, cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu
trách nhiệm, dám đột phá vì lợi ích chung”.
Điều
3. Giải thích từ ngữ
Quy định số
22-QĐ/TW làm rõ nhiều nội dung quan trọng bằng cách đưa ra các khái niệm về ủy ban kiểm tra các cấp; cơ quan ủy ban kiểm tra; kiểm tra của Đảng; giám sát của
Đảng; chủ thể, đối tượng kiểm tra, giám sát; tố cáo trong Đảng; thi hành kỷ
luật trong Đảng; khiếu nại... trong đó Quy định số 22-QĐ/TW bổ sung, làm rõ
quyền, trách nhiệm của chủ thể kiểm tra, giám sát, cụ thể: “Chủ thể kiểm tra, giám sát khi thực hiện
nhiệm vụ phải thẩm tra, xác minh, phân tích, đánh giá, làm rõ kết quả đạt được,
khuyết điểm, hạn chế, tồn tại, vi phạm (nếu có); nguyên nhân của khuyết điểm,
tồn tại, hạn chế, vi phạm (nếu có) và kết luận đối với tổ chức đảng, đảng viên
trong thực hiện nhiệm vụ, kể cả nhiệm vụ cấp trên giao”.
Bổ sung, làm
rõ trách nhiệm của đối tượng kiểm tra, giám sát là: “Chấp hành nghiêm Điều lệ Đảng, các quy định của Đảng về kiểm tra, giám
sát, các quyết định, kết luận, yêu cầu của chủ thể kiểm tra, giám sát; báo cáo,
giải trình đầy đủ, trung thực về các nội dung được yêu cầu”. Quy định rõ
những hành vi mà đối tượng kiểm tra, giám sát không được làm, những hành vi mà
trong thực tiễn kiểm tra, giám sát phát sinh gây khó khăn cho chủ thể khi thực
hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát; bảo đảm về chế độ thông tin, đó là: “Không để lộ nội dung kiểm tra, giám sát cho
tổ chức, cá nhân không có trách nhiệm biết; không được sử dụng thiết bị ghi âm,
ghi hình, thu phát sóng khi làm việc với chủ thể kiểm tra, giám sát”.
2. Về công tác kiểm tra, giám sát của Đảng
Điều 4. Cấp ủy, tổ chức đảng
Quy
định số 22-QĐ/TW bổ sung thêm nội dung yêu cầu cấp ủy, tổ chức đảng cần tập
trung lãnh đạo, chỉ đạo là “Lãnh đạo,
chỉ đạo kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, đảng viên chấp hành pháp luật của Nhà
nước” góp phần thực hiện tốt nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ
Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước.
Về nội dung
kiểm tra, giám sát của cấp ủy, tổ chức đảng, Quy định số 22-QĐ/TW bổ sung nội
dung: “Việc chấp hành các nguyên tắc
tổ chức và hoạt động của Đảng” thay thế cho nội dung trong Quy định số
30-QĐ/TW là: “Việc chấp hành nguyên
tắc tập trung dân chủ” bảo đảm việc chấp hành các nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của Đảng được toàn diện, đầy đủ hơn. Trong công tác cán bộ có bổ sung
thêm một số công việc mà trong thực tế thực hiện thời gian qua có phát sinh vi
phạm, nâng cao hơn nữa trách nhiệm của các tổ chức đảng trong công tác cán bộ,
cụ thể gồm những nội dung sau: Việc tuyển dụng, tiếp nhận, quy hoạch, đào tạo,
bồi dưỡng, đánh giá, luân chuyển, “điều
động, bổ nhiệm, nâng ngạch”,
bố trí, sử dụng, “giới thiệu ứng cử,
bầu cử”, khen thưởng, kỷ
luật cán bộ, thực hiện chính sách cán bộ. Về nội dung kiểm tra, giám sát của
cấp ủy, tổ chức đảng, ngoài nội dung kiểm tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ
đảng viên thì Quy định số 22-QĐ/TW bổ sung thêm nội dung: “Tiêu chuẩn đảng viên, tiêu chuẩn cấp ủy viên”
bảo đảm đầy đủ hơn.
Trong quy định
về thẩm quyền và trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng trong thực hiện nhiệm vụ
kiểm tra, ngoài thẩm quyền yêu cầu các tổ chức đảng và đảng viên có liên quan
báo cáo, cung cấp thông tin, tài liệu theo nội dung kiểm tra thì Quy định số
22-QĐ/TW bổ sung thêm “và phải giữ bí
mật thông tin, tài liệu”; “Đề
nghị cơ quan có thẩm quyền giám định chuyên môn, kỹ thuật liên quan đến nội dung
kiểm tra” bảo đảm chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra nhất là ở những
lĩnh vực chuyên môn sâu, phức tạp liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành.
Điều 5. Các cơ quan tham mưu, giúp việc cấp ủy
Trong quy định
về thẩm quyền và trách nhiệm của các cơ quan tham mưu, giúp việc cấp ủy trong
thực hiện nhiệm vụ kiểm tra có bổ sung và nhấn mạnh, nhất là về thẩm quyền nhằm
bảo đảm đồng bộ với các chủ thể khác trong kiểm tra, giám sát, đó là quyền yêu
cầu đối tượng kiểm tra: Khi thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, được yêu cầu tổ chức
đảng và đảng viên có liên quan báo cáo, cung cấp thông tin, tài liệu có liên
quan đến việc kiểm tra “và phải giữ bí
mật nội dung thông tin, tài liệu”; “Đề nghị cơ quan có thẩm quyền giám định chuyên môn, kỹ thuật liên quan
đến nội dung kiểm tra”.
Điều 7. Chi bộ
Quy định số
22-QĐ/TW tách riêng quy định về kiểm tra, giám sát của chi bộ thành một điều
khoản riêng, khác với Quy định số 30-QĐ/TW gộp chi bộ vào trong nhóm chủ thể
cấp uỷ, tổ chức đảng. Chi bộ tập trung kiểm tra đảng viên trong việc thực hiện
nghị quyết của chi bộ, nhiệm vụ do chi bộ phân công và bổ sung thêm “quy định về trách nhiệm nêu gương”
của đảng viên.
Điều 8. Ủy ban
kiểm tra các cấp
Về thực hiện
nhiệm vụ theo quy định của Điều lệ Đảng, trong thực hiện nhiệm vụ giám sát, có
bổ sung và làm rõ hơn nội dung giám sát của ủy ban kiểm tra trong việc: “thực hiện các kết luận, quyết định kiểm tra,
giám sát và kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm”; ủy ban kiểm tra
các cấp giám sát đối với đảng viên về: “Tư
tưởng chính trị”, giữ gìn đạo đức, lối sống và “trách nhiệm nêu gương” theo các quy định của Đảng; Quy định số
22-QĐ/TW bổ sung cụm từ: “Thực hiện
các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng” thay thế cho cụm từ: “Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ”
trong Quy định số 30-QĐ/TW. Trong đối tượng giám sát của ủy ban kiểm tra các
cấp, đối với đảng viên có làm rõ thêm phạm vi về đối tượng: Cấp ủy viên cùng
cấp: “kể cả bí thư, phó bí thư, ủy viên ban thường vụ”. Trong thực hiện các nhiệm vụ kiểm tra, thi hành kỷ
luật, ở các kênh thông tin để ủy ban kiểm tra các cấp phát hiện, xác định dấu
hiệu vi phạm thông qua: “Báo cáo, kiến
nghị của cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới”.
Về thẩm quyền
và trách nhiệm của ủy ban kiểm tra các cấp, bên cạnh việc ủy ban kiểm tra cử
cán bộ kiểm tra dự các hội nghị của cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới thì có bổ
sung thêm nội dung: “Ủy ban kiểm tra
phân công thành viên ủy ban dự các cuộc họp của cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy cùng cấp”. Trong phần nội dung kiểm tra đối với tổ chức đảng, Quy định
số 22-QĐ/TW có bổ sung thêm một số khâu trong công tác cán bộ để bảo đảm đầy đủ
và sát với thực tế hơn như: “tiếp
nhận, từ chức, miễn nhiệm, giới thiệu ứng cử, bầu cử, nâng ngạch”. Trong việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra tài chính của cấp ủy cấp dưới và cơ quan tài chính cấp ủy cùng cấp, đối với kiểm tra thu, nộp
đảng phí theo Quy định số 30-QĐ/TW nêu rõ: “Nội dung kiểm tra thu, nộp đảng phí chủ yếu do đảng ủy cơ sở tiến hành”,
đến Quy định số 22-QĐ/TW bổ sung thêm chủ thể nữa đó là ủy ban kiểm tra đảng ủy cơ sở, cụ thể: Chủ yếu do đảng ủy cơ sở “và ủy ban kiểm tra đảng ủy cơ sở tiến hành”.
3. Về thi hành kỷ luật trong Đảng
Điều 9. Nguyên tắc thi hành kỷ luật trong Đảng
Trong
các nguyên tắc thi hành kỷ luật trong Đảng, nhiều nguyên tắc được Trung ương
khẳng định, nhấn mạnh lại và có điều chỉnh cho rõ nghĩa hơn. Ở nguyên tắc thứ
04, bên cạnh việc tiếp tục khẳng định thi hành kỷ luật phải căn cứ nội dung,
mức độ, tính chất, tác hại... Quy định số 22-QĐ/TW bổ sung thêm: “Nếu hết thời hiệu thì không xem xét, xử lý
kỷ luật”. Nguyên tắc thứ 07, Quy định số 22-QĐ/TW làm rõ hơn một số
trường hợp chưa xem xét, xử lý kỷ luật, cụ thể: “Đảng viên vi phạm đang trong
thời gian mang thai hoặc đang nuôi con
nhỏ dưới 12 tháng tuổi, bị
bệnh nặng thì chưa xem xét, xử lý kỷ luật”, thay thế cụm từ đang nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi cho
cụm từ nghỉ thai sản được quy
định trong Quy định số 30-QĐ/TW. Điều này làm rõ hơn và thống nhất với quy định
của pháp luật. Quy định số 22-QĐ/TW bổ sung thêm một nguyên tắc làm rõ hơn
trách nhiệm của cá nhân đảng viên với tổ chức đảng, nhất là trách nhiệm của
người đứng đầu tổ chức đảng khi tổ chức đảng đó vi phạm, cụ thể: “Khi kỷ luật một tổ chức đảng phải xem xét
trách nhiệm, xử lý kỷ luật đối với những đảng viên vi phạm, nhất là trách nhiệm
người đứng đầu tổ chức đảng”.
Điều 11. Thẩm quyền thi hành kỷ luật đảng viên
vi phạm
Quy định số
22-QĐ/TW tiếp tục khẳng định, chi bộ được quyết định khiển trách, cảnh cáo đảng
viên trong chi bộ (kể cả cấp ủy viên các cấp, đảng viên thuộc diện cấp ủy cấp
trên quản lý) vi phạm ở nhiều nội dung như: Vi phạm phẩm chất chính trị, tư
tưởng, đạo đức, lối sống... thì Quy định số 22-QĐ/TW có bổ sung thêm: “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Nâng thêm thẩm quyền
cho Ban thường vụ đảng uỷ cơ sở, cụ thể: “Ban thường vụ đảng ủy cơ sở quyết định khiển trách, cảnh cáo đảng viên
trong đảng bộ (kể cả đảng viên là cán bộ thuộc diện cấp ủy cùng cấp quản lý
nhưng không phải là cấp ủy viên cùng cấp hoặc cán bộ thuộc diện cấp ủy cấp trên
quản lý)”, đối với nội dung này, trong Quy định số 30-QĐ/TW nêu :“ban thường vụ đảng ủy cơ sở ban thường vụ
đảng ủy cơ sở không được quyền thi hành kỷ luật đảng viên”, chỉ có quyền
“đề nghị đảng ủy cơ sở quyết định theo
thẩm quyền”.
Về thẩm quyền
của ủy ban kiểm tra các cấp, Quy định số 22-QĐ/TW ngoài việc làm rõ hơn thì còn
bổ sung, nâng thẩm quyền của ủy ban kiểm tra đảng ủy cơ sở như sau: “Ủy ban kiểm tra đảng ủy cơ sở quyết định
hình thức kỷ luật khiển trách, cảnh cáo đảng viên trong đảng bộ (kể cả cấp ủy viên chi bộ, cấp ủy viên đảng ủy bộ phận, cán bộ diện cấp ủy cùng cấp quản lý
nhưng không phải là cấp ủy viên cùng cấp)”, trong Quy định số 30-QĐ/TW
thì ủy ban kiểm tra đảng ủy cơ sở không có thẩm quyền kỷ luật đảng viên, cụ thể:
“Ủy ban kiểm tra đảng ủy cơ sở không
có thẩm quyền kỷ luật đảng viên nhưng có trách nhiệm xem xét, kết luận, đề xuất
đảng ủy cơ sở và ủy ban kiểm tra cấp trên xem xét, quyết định”.
Điều
12. Thẩm quyền thi hành kỷ luật tổ chức đảng vi phạm
Quy định số 22-QĐ/TW
có một số điểm mới, nâng thẩm quyền cho ban thường vụ cấp ủy cấp cơ sở, cụ thể:
“Cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy từ cấp
cơ sở trở lên có quyền kỷ luật tổ chức đảng cấp dưới theo quy định”; “Tổ chức đảng bị kỷ luật khiển trách, cảnh
cáo do cấp ủy hoặc ban thường vụ cấp ủy cấp trên trực tiếp quyết định”.
Như vậy, ban thường vụ cấp cơ sở cũng có thẩm quyền quyết định xử lý, kỷ luật
tổ chức đảng cấp dưới trực tiếp với các hình thức kỷ luật khiển trách hoặc cảnh
cáo, trong khi đó Quy định số 30-QĐ/TW chỉ quy định “cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy huyện, quận và tương đương trở lên có
quyền kỷ luật tổ chức đảng theo quy định của Điều lệ Đảng”.
Điều
17. Về thi hành kỷ luật đối với đảng viên vi phạm pháp luật
Quy định số
22-QĐ/TW bổ sung một số hành vi vi phạm pháp luật của đảng viên để bảo đảm đầy
đủ, đồng bộ và liên thông giữa kỷ luật của Đảng với pháp luật của Nhà nước, cụ
thể: Đảng viên bị khởi tố, truy tố hoặc bị tạm giam “hoặc do cơ quan thanh tra, kiểm toán cung cấp nội dung vi phạm pháp
luật”... “hoặc kết luận của cơ
quan thanh tra, kiểm toán”.
4. Về giải quyết tố cáo đối với tổ chức đảng và đảng viên
Điều 19. Thẩm
quyền giải quyết tố cáo
Quy
định số 22-QĐ/TW bổ sung thêm chủ thể có thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với
tổ chức đảng và đảng viên, qua đó thể hiện rõ trách nhiệm của các chủ thể,
tránh tình trạng khoán trắng nhiệm vụ này cho ủy ban kiểm tra các cấp, bổ sung
“Cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy”
so với Quy định số 30-QĐ/TW trước đây quy định: ủy ban kiểm tra có nhiệm vụ giải quyết tố cáo đối với tổ chức đảng và
đảng viên thuộc phạm vi quản lý của cấp ủy cùng cấp, bổ sung thêm chủ
thể nữa đó là chi bộ “Chi bộ có nhiệm
vụ giải quyết tố cáo đối với đảng viên thuộc phạm vi quản lý”. Bổ sung
thêm đối tượng bị tố cáo và thẩm quyền giải quyết trường hợp những cán bộ đã
nghỉ hưu nếu bị tố cáo vi phạm trong thời điểm đang công tác, cụ thể: “Trường hợp đảng viên là cấp ủy viên các cấp
hoặc cán bộ thuộc diện cấp ủy viên các cấp quản lý đã nghỉ hưu, nếu bị tố cáo
vi phạm khi đang công tác thì thẩm quyền giải quyết tố cáo được thực hiện như
đang đương chức”.
Điều 20. Nguyên
tắc giải quyết tố cáo
Quy định số 20-QĐ/TW thể hiện rõ ràng hơn Quy định số 30-QĐ/TW ở 9 nguyên tắc, trong đó có
một số nguyên tắc về bản chất không thay đổi nhưng được diễn đạt rõ hơn như:
Khi nhận được tố cáo, cơ quan nhận đơn phải phân loại, giải quyết các trường
hợp thuộc phạm vi trách nhiệm hoặc phối hợp với các tổ chức đảng có thẩm quyền
để giải quyết; “nếu không thuộc thẩm
quyền giải quyết của cơ quan mình thì chuyển đến các cơ quan, cá nhân có thẩm
quyền giải quyết các đơn tố cáo”.
Về thời hạn
giải quyết cũng có sự thay đổi, theo Quy định số 30-QĐ/TW quy định thời hạn
giải quyết tố cáo: “Chậm nhất 90 ngày
làm việc... đối với cấp tỉnh, thành, huyện, quận và tương đương trở xuống; 180
ngày làm việc đối với cấp Trung ương...”, đến Quy định số 22-QĐ/TW viết
gọn lại hơn và lược bỏ ngày làm việc,
chỉ để thời hạn là ngày nói
chung, cụ thể: “Chậm nhất 90 ngày đối
với cấp tỉnh, thành, huyện, quận và tương đương trở xuống; 180 ngày đối với cấp
Trung ương...”. Trường hợp vụ việc phức tạp thì có thể gia hạn giải
quyết nhưng không quá 30 ngày. Như vậy, về nguyên tắc đã rút ngắn thời hạn giải
quyết và thời hạn gia hạn giải quyết tố cáo vì tổng thời gian đó là tất cả các
ngày không trừ ngày nghỉ theo quy định của Luật Lao động. Theo đó, toàn bộ văn
bản những điều khoản liên quan đến thời gian đều điều chỉnh từ “ngày làm việc”
thành “ngày”, cụ thể: Điều 26. Thời gian khiếu nại, thời gian giải quyết khiếu nại
và thời gian chuyển đơn khiếu nại không thuộc thẩm quyền giải quyết;Điều 31.Thời
hạn đình chỉ sinh hoạt, hoạt động;Điều 32.Việc quyết định cho đảng viên,
cấp ủy viên trở lại sinh hoạt đảng, sinh hoạt cấp ủy và tổ chức đảng trở lại
hoạt động.
Trong danh mục
các loại đơn tố cáo không giải quyết có bổ sung thêm đơn tố cáo nặc danh, cụ thể: Không giải quyết đơn tố
cáo “nặc danh”, giấu tên, mạo
tên, không rõ địa chỉ... Tuy một số loại đơn tố cáo không giải quyết nhưng lại
rõ địa chỉ, đối tượng và nội dung tố cáo thì Quy định số 22-QĐ/TW có bổ sung
thêm việc sử dụng những nội dung đó để nắm bắt tình hình, làm cơ sở kiểm tra,
giám sát đối với tổ chức đảng, đảng viên: “Nếu đơn tố cáo giấu tên, mạo tên nhưng rõ địa chỉ, đối tượng và nội
dung tố cáo thì tổ chức đảng có thẩm quyền nắm tình hình để làm cơ sở kiểm tra,
giám sát đối với tổ chức đảng, đảng viên bị tố cáo”.
5. Về giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng
Điều 22. Thẩm
quyền, trách nhiệm
Quy
định số 22-QĐ/TW đã bổ sung nâng thẩm quyền, trách nhiệm giải quyết khiếu nại
kỷ luật đảng cho ban thường vụ, ủy ban kiểm tra cấp cơ sở để thống nhất và đồng
bộ với việc nâng thẩm quyền xử lý, kỷ luật trong quy định này, cụ thể: Việc
giải quyết khiếu nại về kỷ luật đảng được tiến hành “từ ủy ban kiểm tra, ban thường vụ cấp ủy hoặc cấp ủy từ cấp cơ sở trở
lên”.
Điều 24. Phạm vi,
đối tượng giải quyết khiếu nại
Quy định số
22-QĐ/TW bổ sung trường hợp không giải quyết khiếu nại, cụ thể: “từ chối nhận quyết định kỷ luật hoặc quyết
định giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng”.
Điều 25. Thẩm
quyền chuẩn y, thay đổi hoặc xóa kỷ luật
Quy định số
22-QĐ/TW nâng thẩm quyền chuẩn y, thay đổi hoặc xóa kỷ luật cho ủy ban kiểm
tra, ban thường vụ, đảng ủy cơ sở, cụ thể: “Ủy ban kiểm tra đảng ủy, ban thường vụ đảng ủy hoặc đảng ủy từ cấp cơ
sở trở lên có thẩm quyền chuẩn y, thay đổi hoặc xóa bỏ hình thức kỷ luật đối
với đảng viên, tổ chức đảng do tổ chức đảng cấp dưới quyết định”.
Trong Quy định số 30-QĐ/TW, thẩm quyền chuẩn y, thay đổi hoặc xóa kỷ luật quy
định: “Ủy ban kiểm tra từ cấp huyện,
quận và tương đương trở lên có thẩm quyền chuẩn y, thay đổi hoặc xóa bỏ hình
thức kỷ luật đối với đảng viên do tổ chức đảng cấp dưới đã quyết định”.
Kết
luận
Như
vậy, Quy định số 22-QĐ/TW được ban hành có nhiều sự thay đổi cả về kết cấu của
văn bản; điều chỉnh, bổ sung, sửa đổi nhiều nội dung so với Quy định số 30-QĐ/TW.
Sự thay đổi này làm cho Quy định số 22-QĐ/TW có bố cục logic hơn, hình thức rõ
ràng, mạch lạc, cụ thể từng vấn đề giúp cho các tổ chức đảng và đảng viên dễ
dàng hơn trong việc nghiên cứu, theo dõi và tổ chức thực hiện trong thực tiễn.
Quy định số 22-QĐ/TW đã hiện thực hóa nhiều quan điểm chỉ đạo của Đại hội XIII
của Đảng vào chỉ đạo thực hiện công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng;
làm rõ hơn nhiều nội dung mà trong thực tiễn công tác kiểm tra, giám sát và kỷ
luật của Đảng phát sinh, đồng thời rà soát nâng thẩm quyền của một số tổ chức
đảng, nhất là ban thường vụ và ủy ban kiểm tra đảng ủy cấp cơ sở.
Tài liệu tham khảo:
[1] Hướng dẫn số
04-HD/UBKTTW, ngày 22/3/2018 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương Hướng dẫn thực hiện một số điều trong Quy định số
102-QĐ/TW, ngày 15/11/2017 của Bộ Chính trị về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm.
[2] Quy định số 30-Đ/TW,
ngày 26/7/2016 của Ban Chấp hành Trung ương Về
thi hành Chương VII và Chương VIII Điều lệ Đảng về công tác kiểm tra, giám sát,
kỷ luật của Đảng.
[3] Quy định số 86-QĐ/TW,
ngày 21/6/2017 của Bộ Chính trị Quy định
giám sát trong Đảng.
[4] Quy định số
22-QĐ/TW, ngày 28/7/2021 của Ban Chấp hành Trung ương Về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng.