Thứ Bảy, ngày 15/10/2022, 11:06

Xuất nhập khẩu hàng hóa ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng và một số khuyến nghị

NINH THỊ MINH TÂM - VŨ THỊ ÁNH NGUYỆT
Học viện Chính trị khu vực I

(GDLL) - Trong bối cảnh kinh tế thế giới diễn biến rất nhanh, phức tạp với những yếu tố thuận lợi và khó khăn đan xen hiện nay, nhiều vấn đề kinh tế của Việt Nam sẽ chịu ảnh hưởng trực tiếp, trong đó có hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa. Bài viết đánh giá thực trạng xuất nhập khẩu hàng hóa ở Việt Nam từ năm 2016 đến nay, qua đó đề xuất một số khuyến nghị nhằm thúc đẩy xuất nhập khẩu hàng hóa ở Việt Nam giai đoạn 2021-2030.

Từ khóa: Nhập khẩu hàng hóa; xuất khẩu hàng hóa; xuất nhập khẩu hàng hóa ở Việt Nam.

Hàng hóa xuất nhập khẩu qua cảng Hải Phòng. (Ảnh: TTXVN)

Đặt vấn đề

Đại hội VI của Đảng với đường lối “Đổi mới” đã xác định: “xuất khẩu là mũi nhọn có ý nghĩa quyết định đối với nhiều mục tiêu kinh tế trong 5 năm (1986-1990), đồng thời cũng là khâu chủ yếu của toàn bộ các quan hệ kinh tế đối ngoại”[3]. Thực tiễn hoạt động xuất nhập khẩu trong hơn 35 năm qua đã khẳng định vai trò đó, đóng góp một phần không nhỏ vào công cuộc đổi mới đất nước, trở thành động lực cho tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, xuất nhập khẩu hàng hóa ở Việt Nam vẫn tồn tại một số bất cập. Để tiếp tục phát huy những thành tựu và thúc đẩy xuất nhập khẩu hàng hóa ở Việt Nam đáp ứng mục tiêu đặt ra cả về lượng và chất, cần thiết phải đánh giá thực trạng xuất nhập khẩu ở nước ta làm cơ sở đề xuất giải pháp, hướng đi phù hợp hơn.

1. Một số nội dung lý luận về xuất nhập khẩu hàng hóa

Theo Luật Thương mại 2005, xuất khẩu hàng hóa được hiểu là việc hàng hóa được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật; nhập khẩu hàng hóa là việc hàng hóa được đưa vào lãnh thổ Việt Nam từ nước ngoài hoặc từ khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật[9].

Cán cân thương mại là bộ phận cơ bản của tài khoản vãng lai, ghi chép các luồng tiền gắn với xuất, nhập khẩu hàng hóa của một quốc gia, phản ánh sự chênh lệch giữa tổng giá trị xuất khẩu và nhập khẩu của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định. Đây là một chỉ tiêu quan trọng dùng để đánh giá sức khỏe và trình độ phát triển của một quốc gia[12].

Khi tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu cao hơn tổng giá trị hàng hóa nhập khẩu, quốc gia có thặng dư thương mại, hay còn gọi là xuất siêu; và ngược lại, thâm hụt thương mại (hay còn gọi là nhập siêu) xảy ra khi tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu thấp hơn tổng giá trị hàng hóa nhập khẩu. Nếu cán cân thương mại thường xuyên thâm hụt, các quốc gia thường phải dựa vào thặng dư của cán cân vốn để bù đắp, điều này đồng nghĩa với việc phải phụ thuộc vào nguồn đầu tư và tín dụng của nước ngoài. Ngoài ra, thâm hụt cán cân thương mại cũng hàm ý các vấn đề liên quan đến sức cạnh tranh yếu của hàng hóa trong nước và tỷ giá hối đoái. Chính vì vậy, hầu hết các quốc gia đều cố gắng tránh thâm hụt thương mại, dù đôi khi cán cân thương mại thuận lợi hoặc thặng dư có thể không mang lại lợi ích tốt nhất cho đất nước.

2. Quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà Nước về xuất nhập khẩu hàng hóa

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (2016), Đảng đã nhấn mạnh: “Đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu phù hợp, phấn đấu cân bằng thương mại bền vững. Tăng cường xúc tiến thương mại, nâng cao chất lượng sản phẩm, xây dựng thương hiệu hàng Việt Nam, nhất là các mặt hàng có lợi thế. Phấn đấu đạt tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu bình quân khoảng 10%/năm[4, tr.279-280], “Khai thác lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới, tập trung phát triển sản phẩm có lợi thế so sánh, giá trị gia tăng cao, bảo đảm các tiêu chuẩn theo yêu cầu xuất khẩu, có khả năng tham gia hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu”[4,tr.281-282].

Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (2021), Đảng đã xác định: “Khai thác hiệu quả các hiệp định thương mại tự do, mở rộng và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, không để phụ thuộc quá lớn vào một thị trường... Đa dạng hóa đối tác nhập khẩu, tránh tình trạng phụ thuộc vào một đối tác. Ưu tiên nhập khẩu máy móc, thiết bị, vật tư đầu vào được tạo ra từ công nghệ cao, công nghệ tiên tiến, hàng hóa trong nước chưa sản xuất được”[6, tr.102-103], “Đẩy mạnh cơ cấu lại nông nghiệp, khai thác và phát huy lợi thế nền nông nghiệp nhiệt đới, phát triển nông nghiệp hàng hóa tập trung quy mô lớn theo hướng hiện đại... Tổ chức kết nối nông nghiệp với công nghiệp chế biến, thị trường, xuất khẩu, chuỗi giá trị toàn cầu”[5, tr.241-242].

Các quan điểm của Đảng qua các kỳ Đại hội đã được cụ thể hóa thông qua nhiều chủ trương, chính sách, đặc biệt là Luật Thương mại số 36/2005/QH11 ngày 14/6/2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành; ngoài ra còn có các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa qua các giai đoạn như Quyết định số 2471/QĐ-TTg ngày 28/12/2011của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2011- 2020, định hướng đến năm 2030; Quyết định số 493/QĐ-TTg ngày 19/4/2022 của Thủ tướng Chính phủ về việc Phê duyệt Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa đến năm 2030, trong đó nhấn mạnh: “Xuất nhập khẩu phát triển bền vững với cơ cấu cân đối, hài hòa, phát huy lợi thế cạnh tranh, lợi thế so sánh, phát triển thương hiệu hàng hóa Việt Nam, nâng cao vị thế quốc gia trong chuỗi giá trị toàn cầu, là động lực của tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”[11].

3. Thực trạng xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam từ năm 2016 đến nay

3.1. Kết quả đạt được 

Thứ nhất, cán cân xuất, nhập khẩu hàng hóa được cải thiện rõ rệt, chuyển từ thâm hụt sang thặng dư: Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa tăng từ 327,8 tỷ USD năm 2015 lên khoảng 517 tỷ USD năm 2019 và trong năm 2020, mặc dù ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh Covid-19 vẫn đạt 543,9 tỷ USD (tăng gần 1,7 lần so với năm 2005 và tăng 5,2% so với năm 2019). Xuất khẩu hàng hóa tăng từ 162 tỷ USD năm 2015 lên đạt 281,5 tỷ USD năm 2020, tăng bình quân 11,7%/năm giai đoạn 2016-2020, là động lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế. Đặc biệt, cán cân thương mại hàng hóa đạt thặng dư từ năm 2016, năm sau cao hơn năm trước, từ mức thặng dư 1,78 tỷ USD năm 2016 tăng lên đạt 2,11 tỷ USD năm 2017, năm 2018 đạt 6,83 tỷ USD, đạt 10,87 tỷ USD năm 2019 và năm 2020 đạt mức ấn tượng là 19,1 tỷ USD, tạo điều kiện cải thiện cán cân thanh toán, góp phần ổn định các chỉ số kinh tế vĩ mô khác[6, tr.14-15]. Năm 2021, dù chịu ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh, sản xuất, xuất khẩu gặp nhiều khó khăn, song hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa của nước ta tiếp tục vẫn là điểm sáng của nền kinh tế, đạt tăng trưởng ấn tượng so với năm 2020 với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa đạt 668,5 tỷ USD (tăng 22,6% so với năm 2020), trong đó xuất khẩu tăng 19%, nhập khẩu tăng 26,5 % so với năm 2020[2]. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, 6 tháng đầu năm 2022, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa đạt 371,17 tỷ USD (tăng 16,4% so với cùng kỳ năm 2021), trong đó xuất khẩu tăng 17,3% và nhập khẩu tăng 15,5%[13].

Thứ hai, cơ cấu hàng hóa xuất, nhập khẩu chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến, chế tạo, giảm xuất khẩu thô; nhập khẩu chủ yếu ở nhóm hàng cần thiết phục vụ sản xuất, xuất khẩu và phục vụ các dự án đầu tư trong lĩnh vực năng lượng, điện tử, cụ thể là: Tỷ trọng giá trị hàng hóa xuất khẩu đã qua chế biến trong tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa tăng từ 65% năm 2016 lên 85% năm 2020; tỷ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao trong tổng giá trị sản phẩm công nghệ cao tăng từ 63,9% năm 2016 lên 77,7% năm 2019...[6, tr.14-15]. Năm 2021, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực. Nhóm hàng công nghiệp chế biến tiếp tục là động lực cho tăng trưởng chung của xuất khẩu, cụ thể: kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp chế biến đạt 290 tỷ USD, tăng 20,4% so với năm 2020, chiếm 86,2% tổng kim ngạch xuất khẩu. Tỷ trọng trong tổng kim ngạch của nhóm hàng nhiên liệu, khoáng sản và nông, thủy sản giảm. Các nhóm hàng như nông sản, thủy sản, điện thoại, linh kiện, máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng, sản phẩm nội thất từ chất liệu khác gỗ, dệt may và da giày... tuy chịu ảnh hưởng nặng nền từ dịch bệnh Covid-19 nhưng đã có sự phục hồi và tăng trưởng, đóng góp lớn vào mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu[2]. 6 tháng đầu năm 2022, trong cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng cao nhất với 88,7% trong tổng kim ngạch xuất khẩu; trong cơ cấu nhóm hàng nhập khẩu, nhóm hàng tư liệu sản xuất chiếm nhiều nhất với 94% trong tổng kim ngạch nhập khẩu cả nước[13].

Thứ ba, đa dạng hóa thị trường xuất nhập khẩu với quy mô giá trị xuất nhập khẩu tăng. Từ năm 2016 đến nay, thị trường xuất khẩu được mở rộng và đa dạng, nhiều sản phẩm của doanh nghiệp trong nước đã dần có chỗ đứng và khả năng cạnh tranh trên nhiều thị trường có yêu cầu cao về chất lượng. Về xuất khẩu, từ 24 thị trường xuất khẩu đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD (2016) tăng lên 31 thị trường (2020)[7] và đạt 33 thị trường (2021)[2]. Hiện nay, doanh nghiệp tiếp tục duy trì những thị trường truyền thống lớn và tận dụng khá tốt cơ hội từ các FTA, đã góp phần quan trọng vào kết quả tăng trưởng xuất khẩu 2 con số trong 6 tháng đầu năm 2022, xuất khẩu hàng hóa sang các thị trường chủ lực của Việt Nam và những thị trường mà nước ta có ký kết FTA cũng tăng trưởng khá, chẳng hạn như: Mỹ đạt 55,9 tỷ USD, tăng 22,5 %; EU 23,6 tỷ USD, tăng 21,6 %; Trung Quốc đạt 26,3 tỷ USD, tăng 7 %[10]. Về nhập khẩu, thị trường nhập khẩu máy móc, nguyên liệu cho sản xuất đã dịch chuyển dần từ khu vực Châu Á sang thị trường Châu Âu và Châu Mỹ, nhập khẩu đáp ứng nhu cầu cho sản xuất, tiêu dùng trong nước. Kim ngạch nhập khẩu năm 2021 đạt 332,2 tỷ USD, tăng 26,5% so với năm 2020. Nhập khẩu đáp ứng nguồn cung nguyên liệu cho sản xuất của doanh nghiệp, không có tình trạng thiếu hụt hay đứt gãy nguồn cung. Nhóm hàng cần nhập khẩu chiếm tỷ trọng cao, đạt 294,6 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 88,7% trong tổng kim ngạch nhập khẩu[2]. 

3.2. Hạn chế, bất cập

Thứ nhất, xu hướng cán cân xuất, nhập khẩu hàng hóa thặng dư ngày càng tăng cao và nhanh đã tạo ra sức ép lên việc quản lý và điều hành chính sách tiền tệ, tỷ giá của Chính phủ bởi những biến động lớn trong cán cân thương mại đều gây ra những khó khăn trong công tác quản lý, điều hành chính sách xuất nhập khẩu cũng như các lĩnh vực liên quan. 

Thứ hai, cơ cấu hàng hóa xuất, nhập khẩu chuyển dịch tích cực tuy nhiên sự chênh lệch giữa các nhóm hàng còn chênh lệch lớn.Sự phát triển mạnh mẽ của nhóm hàng chế biến, chế tạo trong những năm qua cũng tiềm ẩn sự phát triển không bền vững bởi hiện nay chủ yếu Việt Nam chỉ tham gia khâu gia công, lắp ráp cho nước ngoài, giá trị gia tăng của sản phẩm thấp, chậm đổi mới, hàm lượng chất xám, công nghệ còn hạn chế. Bên cạnh đó, nhập khẩu nguyên vật liệu đầu vào chiếm 94% trong tổng kim ngạch nhập khẩu cả nước[13] cho thấy sự phụ thuộc quá lớn vào nguồn nguyên phụ liệu nước ngoài, trước những khó khăn của tình hình dịch bệnh Covid-19 phức tạp như hai năm qua, việc đứt gãy nguồn cung nguyên phụ liệu tại một số thị trường lớn đã bộc lộ những khó khăn, nguy cơ đứt gãy chuỗi cung ứng luôn thường trực.

Thứ ba, xu hướng đa dạng hóa thị trường xuất nhập khẩu hàng hóa đạt được kết quả tích cực tuy nhiên, tỷ trọng xuất nhập khẩu hiện nay vẫn tập trung quá nhiều và ngày càng tăng cao tại một số thị trường lớn điển hình: Về xuất khẩu, Hoa Kỳ đang là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam hiện nay, cụ thể như năm 2020 đạt 77,1 tỷ USD tăng 25,7% so với năm 2019[1, tr.121], đạt 111 tỷ USD năm 2021[2], trong 6 tháng đầu năm 2022, ước đạt 55,9 tỷ USD[13]. Việc xuất khẩu hàng hóa tập trung quá nhiều tại một số thị trường lớn sẽ gây ra tình trạng quá phụ thuộc và sẽ chịu ảnh hưởng lớn vào các chính sách áp thuế, hạn chế, bảo hộ sản phẩm trong nước của nước sở tại. Về nhập khẩu, thị trường nhập khẩu máy móc, nguyên liệu cho sản xuất đã dịch chuyển dần từ khu vực Châu Á sang thị trường Châu Âu và Châu Mỹ. Tuy nhiên, việc nhập khẩu được chuyển dịch sang các thị trường mới vẫn đang chiếm tỷ trọng còn quá nhỏ, thị trường Trung Quốc hiện nay vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam, đã lập đỉnh nhập khẩu chiếm 35,3 tỷ USD năm 2020[1, tr.85] tăng 3,7% so với năm 2019 trở thành thị trường có thâm hụt thương mại lớn nhất, đứng thứ 2 là Hàn Quốc mức đạt 27,8 tỷ USD năm 2020 tăng 1,8% so với năm 2019[1, tr.90]

4. Một số khuyến nghị

Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách xuất nhập khẩu và cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng, công bằng, cụ thể:

Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách về quản lý nhà nước về xuất nhập khẩu trong đó cần hoàn thiện các chính sách xúc tiến đầu tư, xúc tiến xuất khẩu cho phù hợp với thông lệ quốc tế tạo cơ sở pháp lý cho việc phát triển quan hệ song phương, đa phương với các nước, trong đó các cơ chế, chính sách về quản lý xuất nhập khẩu đưa ra cần đảm bảo tạo thuận lợi cho thương mại, chống gian lận thương mại và hướng tới thương mại công bằng. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính về xuất nhập khẩu với cơ chế “một cửa” nhằm đơn giản hóa thủ tục và rút ngắn thời gian xử lý hồ sơ.

Xây dựng các chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước đầu tư khoa học công nghệ vào sản xuất, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao bằng các biện pháp hỗ trợ tài chính, nâng cao chất lượng của hệ thống cơ sở hạ tầng, xây dựng kênh cung cấp thông tin thị trường trong nước và quốc tế.

Hoàn thiện, ban hành mới các chính sách tài chính, tiền tệ như hạ lãi suất, giảm thuế, nâng khả năng tiếp cận nguồn vốn vay, đặc biệt cần cải cách chính sách quản lý thuế và các rào cản kỹ thuật cho hoạt động xuất nhập khẩu như hoàn thuế xuất khẩu đối với các loại hàng hóa được quy định cụ thể và tỷ lệ hoàn thuế, thời hạn hoàn thuế, đặc biệt cần đơn giản hóa các thủ tục hoàn thuế. Ngoài ra, cần cụ thể hóa các trường hợp được miễn, giảm thuế đối với các ngành hàng thuộc diện ưu tiên sản xuất như các loại hàng hóa tạm nhập, tái xuất, hàng hóa thuộc sở hữu của các cơ quan đại diện ngoại giao, hàng hóa xuất khẩu để đi gia công tại nước ngoài...

Thứ hai, chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu theo hướng tích cực bằng cách tiếp tục tăng cường vai trò của Chính phủ và các cơ quan chức năng trong xây dựng và thực hiện các chính sách phát triển sản phẩm, các chính sách hỗ trợ tạo môi trường thuận lợi cho quá trình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu, cụ thể:

Bảo đảm thông tin phát triển thị trường, dự báo các thị trường tiềm năng, tạo điều kiện thuận lợi cho nhập khẩu công nghệ, nguyên liệu cho sản xuất kinh doanh.

Xây dựng cơ chế, chính sách nhằm hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn của Việt Nam tương thích với tiêu chuẩn của các nước nhập khẩu; đổi mới nâng cao hiệu quả chính sách xúc tiến thương mại, chương trình thương hiệu quốc gia, tăng cường kết nối với các hệ thống phân phối nước ngoài, cơ cấu hàng hóa tập trung phát triển theo chuỗi giá trị, ứng dụng khoa học công nghệ; cần tạo chuỗi liên kết giữa các doanh nghiệp tham gia sản xuất, xuất khẩu với các doanh nghiệp thương mại tiêu thụ sản phẩm giúp tăng tính chủ động hơn trong các hoạt động xuất khẩu.

Xây dựng và thực hiện các chính sách phát triển công nghệ quốc gia trong đó chia 2 nhóm gồm chính sách cơ bản và chính sách hỗ trợ gồm các chính sách thúc đẩy đầu tư và các chính sách hỗ trợ ứng dụng khoa học công nghệ trong xuất nhập khẩu để nâng cao giá trị gia tăng cho hàng hóa xuất nhập khẩu, chuyển dịch cơ cấu hàng hóa theo hướng hiện đại. Ngoài ra, Việt Nam cũng cần thúc đẩy phát triển dịch vụ logistic, giảm các chi phí logistics trong các hoạt động xuất nhập khẩu và lưu thông hàng hóa trong nước đồng thời đảm bảo tiến độ lưu thông hàng hóa xuất khẩu tại các cảng biển, cửa khẩu biên giới.

Thứ ba, tiếp tục các giải pháp để giữ vững thị trường chủ lực, cần tìm kiếm mở rộng thêm các thị trường tiềm năng cụ thể như sau:

Tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho thương mại song phương và hợp tác tiểu vùng của Việt Nam với các đối tác tại Châu Phi, Châu Mỹ Latinh... nhằm đa dạng hóa thị trường, đa dạng hóa các mặt hàng xuất nhập khẩu. Đưa ra các chính sách phát triển thị trường nhằm khai thác, tìm kiếm thông tin tiếp cận thị trường và đưa ra báo cáo dự báo có giá trị, với quan điểm chú trọng phát triển thị trường chủ lực đồng thời mở rộng thị trường mới, thị trường ngách.

Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, đa dạng hóa các hình thức tổ chức như hội chợ, triển lãm bằng cách hình thức linh hoạt trực tiếp hoặc trực tuyến và ứng dụng các công nghệ cao, trí tuệ nhân tạo. Hơn nữa, cần nâng cao năng lực ứng phó với các biện pháp phòng vệ thương mại tại các nước sở tại cho các doanh nghiệp xuất khẩu. 

Kết luận

Với vai trò của hoạt động xuất nhập khẩu trong việc cải thiện cán cân thanh toán, tăng thu cho ngân sách nhà nước, kích thích đổi mới công nghệ... việc nghiên cứu hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong từng giai đoạn là cần thiết, từ đó làm căn cứ để Nhà nước đưa ra được những chính sách phù hợp hơn. Bài viết đánh giá một số kết quả đã đạt được, những hạn chế, bất cập về xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam giai đoạn 2016 đến nay và đưa ra một số khuyến nghị giúp xuất nhập khẩu hàng hóa Việt Nam thực hiện thành công chiến lược xuất nhập khẩu giai đoạn 2021-2030, đồng thời, giúp Việt Nam thực hiện thành công các mục tiêu kinh tế - xã hội mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.

Tài liệu tham khảo:

[1] Bộ Công Thương (2021), Báo cáo Xuất nhập khẩu Việt Nam 2020.

[2] Bộ Công Thương (2022), Báo cáo Xuất nhập khẩu Việt Nam 2021.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011-2020, Nxb. Sự thật, Hà Nội.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[7] Nguyễn Đình Luận (2014), Điểm sáng giai đoạn 2011-2013, Tạp chí tài chính điện tử, https://tapchitaichinh.vn

[8] PV (2021), Xuất nhập khẩu giai đoạn 2016-2020: Dấu ấn chuyển mình của các doanh nghiệp trong nước, https://tapchicongthuong.vn

[9] Quốc Hội, Luật Thương mại 2005, Điều 28.

[10] Ánh Ngọc (2022), Xuất khẩu tăng trưởng trong khó khăn, https://kinhtedothi.vn

[11] Thủ tướng Chính phủ (2021), Quyết định số 493/QĐ - TTg ngày 19/04/2022 về Phê duyệt Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa đến năm 2030.

[12] Đỗ Thị Thục, Nguyễn Minh Hạnh (2021), Cán cân thương mại và tác động của cán cân thương mại tới tăng trưởng kinh tế trong điều kiện bình thường mới ở Việt Nam, Tạp chí Công thương, https://tapchicongthuong.vn

[13] Tổng cục Thống kê (2022), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý II và 6 tháng đầu năm 2022, https://www.gso.gov.vn

Đọc thêm

Hành trình từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa cộng sản của đồng chí Nguyễn Chí Diểu

Tác giả: Nguyễn Thị Minh Thùy

(GDLL) - Nguyễn Chí Diểu (1908-1939), một trong những đảng viên thuộc lớp đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhà lãnh đạo tiền bối tiêu biểu của Đảng và cách mạng Việt Nam. Cuộc đời đồng chí là tấm gương cao đẹp của người cộng sản hết lòng vì nước, vì dân. Bài viết tìm hiểu quá trình chuyển biến từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa cộng sản, qua đó thấy được sự kiên định, vì nước vì dân của đồng chí.

Hợp tác xã trong liên kết chuỗi giá trị nông sản ở An Giang hiện nay

Tác giả: Trần Văn Hiển

(GDLL) - Liên kết chuỗi giá trị nông sản là mô hình kinh tế đem lại lợi ích thiết thực cho các chủ thể tham gia và góp phần tích cực vào chuyển đổi cơ cấu sản xuất, phát triển nông nghiệp bền vững trong điều kiện cạnh tranh toàn cầu. Trên cơ sở những nhận thức cơ bản về chuỗi giá trị nông sản: khái niệm, hình thức, sơ đồ, mô hình liên kết…, bài viết khái quát kết quả, vai trò của hợp tác xã trong liên kết chuỗi giá trị nông sản và đề xuất một số giải pháp phát huy vai trò của hợp tác xã trong liên kết chuỗi giá trị nông sản ở An Giang.

30 năm quan hệ hợp tác Việt Nam - Hàn Quốc (1992 - 2022): Thành tựu và triển vọng

Tác giả: NGUYỄN VĂN ĐỨC - NGUYỄN THỊ THÚY

(GDLL) - Trải qua 30 năm, quan hệ Việt Nam và Hàn Quốc đã có bước phát triển toàn diện, bền vững, mang lại lợi ích cho cả hai dân tộc. Bài viết khái quát những thành tựu tốt đẹp đã gặt hái được trong quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc 30 năm qua (1992 - 2022) và chỉ ra một số hạn chế còn tồn tại. Từ đó, đưa ra định hướng, khuyến nghị nhằm thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Hàn Quốc lên tầm cao mới.

Phát huy vai trò của các tổ chức khoa học và công nghệ ngoài công lập để góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Tác giả: PGS. TS. Phạm Ngọc Linh

(TG) - Sự phát triển nhanh chóng của các tổ chức KH&CN ngoài công lập trực thuộc LHHVN đã nâng cao vai trò của LHHVN trong việc tập hợp đoàn kết trí thức KH&CN phục vụ mục tiêu CNH, HĐH đất nước. Các tổ chức KH&CN này được đánh giá là nhân tố mới ở Việt Nam trong công tác tham gia xã hội hóa các hoạt động KH&CN, GD&ĐT, chăm sóc sức khỏe nhân dân, phát triển cộng đồng, xóa đói giảm nghèo và bảo vệ môi trường.

Chuyển đổi số trong xây dựng nông thôn mới hướng tới mô hình làng thông minh

Tác giả: TS ĐỖ THỊ PHƯƠNG HOA

(LLCT) - Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang mở ra một kỷ nguyên mới trong sự phát triển của nhân loại. Chuyển đổi số trở thành xu hướng phát triển của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Bài viết phân tích chủ trương về chuyển đổi số trong nông nghiệp, nông thôn và xây dựng làng thông minh ở nước ta, chỉ ra thực trạng một số mô hình làng thông minh hiện nay, từ đó đề xuất giải pháp tăng cường chuyển đổi số trong xây dựng nông thôn mới, hướng tới nông thôn thông minh trong thời gian tới.