Thứ Tư, ngày 15/02/2023, 15:22

Hợp tác phát triển giữa Việt Nam với Campuchia: Thực trạng và khuyến nghị

NGUYỄN THỊ THUÝ - CAO THỊ THU TRANG
Học viện Chính trị khu vực I

(GDLL) - Việt Nam và Campuchia là hai quốc gia láng giềng có những nét tương đồng về địa lý, lịch sử, văn hóa, có truyền thống gắn bó lâu đời. Quan hệ hữu nghị Việt Nam - Campuchia luôn được các thế hệ lãnh đạo hai nước qua các thời kỳ dày công vun đắp. Thời gian qua, cùng với những tiến triển tốt đẹp trong quan hệ nhiều mặt giữa hai quốc gia, các vấn đề về biên giới, kiều dân... cũng từng bước được giải quyết trên tinh thần bình đẳng, hữu nghị, phù hợp với luật pháp của mỗi quốc gia và thông lệ của quốc tế nhằm mục tiêu phát triển. Trên cơ sở làm rõ thực trạng hợp tác giữa hai nước Việt Nam với Campuchia, bài viết đề xuất một số khuyến nghị nhằm tăng cường hợp tác phát triển giữa giữa hai nước Việt Nam - Campuchia.

Từ khóa:Biên giới lãnh thổ; Campuchia; hợp tác phát triển; Việt Nam.

Thủ tướng Phạm Minh Chính và Thủ tướng Campuchia Samdech Techo Hun Sen tham dự Diễn đàn Xúc tiến Đầu tư và thương mại Việt Nam - Campuchia

(Ảnh: TTXVN)

Đặt vấn đề

Ngày 24/6/1967, Việt Nam và Campuchia đã chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao, mở ra một chương mới trong lịch sử chung của hai dân tộc. Trên cơ sở Hiệp định về quy chế biên giới năm 1983 và Hiệp ước về hoạch định biên giới năm 1985 (bổ sung năm 2005 và năm 2019) và thỏa thuận của lãnh đạo cấp cao hai nước, các cơ quan chức năng, chính quyền và nhân dân địa phương các tỉnh biên giới hai bên đã nỗ lực xây dựng đường biên giới chung hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Năm 2019, hai bên đã ký hai văn kiện pháp lý ghi nhận thành quả phân giới, cắm mốc khoảng 84% và hiện hai bên đang tiếp tục đàm phán giải quyết 16% còn lại. Quan hệ giữa các tỉnh biên giới Việt Nam - Campuchia trên các mặt kinh tế, thương mại, đầu tư gần đây phát triển tích cực và đạt được những kết quả đáng khích lệ[11].

1. Thực trạng hợp tác phát triển giữa Việt Nam với Campuchia trên một số lĩnh vực

Đường biên giới trên đất liền Việt Nam và Campuchia dài khoảng 1.137 km, điểm khởi đầu là giao điểm đường biên giới ba nước Việt Nam - Campuchia - Lào, điểm kết thúc trên bờ vịnh Thái Lan tiếp giáp giữa tỉnh Kiên Giang (Việt Nam) và tỉnh Kămpốt (Campuchia); đi qua địa giới hành chính 10 tỉnh của Việt Nam (Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Bình Phước, Tây Ninh, Long An, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang), tiếp giáp với 9 tỉnh của Campuchia(Ratanakiri, Mônđulkiri, -Kratié, Tboung Khmum, Svayriêng, Prêyveng, Kanđal, Tàkeo, Kămpốt)[2].

Tính đến tháng 8/2022, trên toàn tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Campuchia có tổng số 33 cửa khẩu đang hoạt động[1]. Hiện nay, Việt Nam và Campuchia đang tiếp tục xem xét việc mở mới và nâng cấp một số cửa khẩu nhằm đáp ứng nhu cầu qua lại và giao lưu hợp tác qua biên giới ngày càng cao giữa hai nước và quốc tế.

1.1. Hợp tác cắm mốc biên giới Việt Nam - Campuchia

Hai nước đã ký được hệ thống các điều ước quốc tế song phương, làm cơ sở pháp lý để giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ và thực hiện công tác phân giới, cắm mốc. Đến nay, Việt Nam và Campuchia đã ký 07 văn bản song phương để giải quyết vấn đề biên giới đất liền: Hiệp ước về nguyên tắc giải quyết vấn đề biên giới Việt Nam - Campuchia (ngày 20/7/1983); Hiệp ước về quy chế biên giới quốc gia Việt Nam - Campuchia (ngày 20/7/1983); Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia Việt Nam - Campuchia (ngày 27/12/1985); Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia Việt Nam - Campuchia năm 1985 (ngày 10/10/2005); Bản ghi nhớ về việc điều chỉnh đường biên giới trên bộ đối với một số khu vực còn tồn đọng (ngày 23/4/2011); Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia năm 1985 và Hiệp ước bổ sung năm 2005 và Nghị định thư phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền giữa hai nước (ngày 05/10/2019), 01 Hiệp ước về vùng nước lịch sử Việt Nam - Campuchia (ngày 07/7/1982) và Hiệp ước xác định giao điểm đường biên giới ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia (ngày 26/8/2008). Đây là những văn bản pháp lý quan trọng và được ký kết vào những thời điểm lịch sử, tạo cơ sở cho việc giải quyết vấn đề biên giới giữa hai nước, giải quyết những vấn đề khó khăn trong thực tiễn việc triển khai công tác phân giới, cắm mốc. Qua việc ký Hiệp ước bổ sung 2005, Việt Nam và Campuchia cùng tái khẳng định giá trị pháp lý của các Hiệp định biên giới hai nước đã ký trong những năm 80 của thế kỷ XX, đáp ứng mối quan tâm của chính quyền và nhân dân hai bên biên giới, nối lại tiến trình phân giới, cắm mốc nhằm xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển giữa hai dân tộc.

Việc Việt Nam và Campuchia tiếp tục ký Hiệp ước bổ sung 2019 và Nghị định thư phân giới, cắm mốc đã cho thấy thiện chí, quyết tâm, trách nhiệm của hai bên trong việc giải quyết những khó khăn trong vấn đề biên giới lãnh thổ trên cơ sở của luật pháp quốc tế[6]. Việc ký kết các văn bản pháp lý với Campuchia, không chỉ tạo động lực, điều kiện cho việc giải quyết công tác phân giới, cắm mốc giữa Việt Nam và Campuchia từ năm 1985 đến nay mà còn khẳng định chủ trương nhất quán của Việt Nam là giải quyết tốt công tác biên giới lãnh thổ của các quốc gia láng giềng phù hợp với luật pháp quốc tế để làm cơ sở cho quan hệ lâu dài giữa các quốc gia.

Sau khi ký Hiệp ước bổ sung 2005, Việt Nam - Campuchia đã tái khởi động công tác phân giới, cắm mốc trên toàn tuyến biên giới đất liền hai nước. Đến tháng 10/2019, Việt Nam và Campuchia đã hoàn thành khoảng 84% khối lượng công tác phân giới, cắm mốc trên toàn tuyến, với khoảng 1.045/1.137 km đường biên giới đất liền, xây dựng được 315/371 cột mốc chính, 1.511 cột mốc phụ và 221 cọc dấu[8], trong đó đã cắm được cột mốc ở hầu hết các vị trí quan trọng như các cửa khẩu, nơi có đường giao thông cắt qua biên giới, nơi tập trung đông dân cư, đặc biệt đã cắm được cột mốc ở điểm đầu và điểm cuối của biên giới đất liền. Hai bên đã quy thuộc được 111 cồn bãi trên sông, suối biên giới, trong đó có 43 cồn bãi thuộc Việt Nam, 68 cồn bãi thuộc Campuchia; có 03 tỉnh của Việt Nam đã hoàn thành việc xác định vị trí và xây dựng cột mốc chính và cơ bản hoàn thành công tác phân giới trên thực địa (Kon Tum, Bình Phước, Đồng Tháp)[5]. Việt Nam và Campuchia đã hoàn thành việc hoán đổi các diện tích quản lý vượt quá sang nhau theo MOU và áp dụng mô hình MOU tại 06 cặp tỉnh:Tây Ninh - Tboung Khmum, Svay Rieng; Đồng Tháp - Pray Veng; An Giang - Takeo và Kiên Giang - Takeo, Kampot; hoàn thiện hồ sơ phân giới, cắm mốc (gồm Hồ sơ mốc quốc giới, Hồ sơ phân giới, Bảng quy thuộc cồn bãi và các văn bản pháp lý liên quan khác) và hoàn chỉnh việc thành lập Bộ bản đồ đường biên giới quốc gia Việt Nam - Campuchia.

Công tác thông tin đối ngoại, tuyên truyền về hợp tác giữa hai nước trong giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần quảng bá chính sách hai nước. Chính phủ hai nước thường xuyên chỉ đạo, định hướng các cơ quan truyền thông, thông tấn, báo chí từ trung ương đến địa phương tăng cường, chủ động đưa tin, bài chất lượng, phản ánh chân thực, sinh động, sâu sắc kết quả hợp tác giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ; tăng cường công tác thông tin đối ngoại, xây dựng và xuất bản các ấn phẩm thông tin, tuyên truyền phong phú, đa dạng; sử dụng các ấn phẩm thông tin hiện đại, tích cực tuyên truyền đối ngoại về vấn đề biên giới lãnh thổ. Công tác thông tin đối ngoại, tuyên truyền góp phần quan trọng làm cho cộng đồng quốc tế hiểu rõ đường lối, chính sách đối ngoại của Việt Nam và Campuchia; đồng thời, giúp nhân dân hai nước hiểu rõ về ý nghĩa quan hệ truyền thống hữu nghị giữa hai nước, tầm quan trọng của việc xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Qua đó, tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế, hệ thống chính trị và nhân dân hai nước vào chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam và Vương quốc Campuchia trong giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ.

Song song với việc giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ, phân giới, cắm mốc trên thực địa, Việt Nam và Campuchia đã tăng cường hợp tác trong việc bảo đảm an ninh, trật tự trên tuyến biên giới, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động hợp tác khu vực biên giới, góp phần xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Các đơn vị chức năng Việt Nam và Campuchia đã phối hợp tốt trong khảo sát, lập sơ đồ tuyến biên giới, các khu vực tranh chấp về đất đai, các điểm nóng về xâm canh, xâm cư; giải quyết các vụ, việc làm hư hại các cọc dấu, cột phương vị do bị phá trộm hoặc người dân làm hư hại trong quá trình canh tác sản xuất, góp phần bảo đảm tiến độ phân giới, cắm mốc. Đồng thời, hai nước đã phối hợp hiệu quả trong công tác đấu tranh với các hoạt động phá hoại công tác phân giới, cắm mốc. Bên cạnh đó, công tác đấu tranh với các loại tội phạm được triển khai hiệu quả, góp phần bảo đảm an ninh, trật tự địa bàn khu vực biên giới hai nước. Các lực lượng chức năng hai nước đã hợp tác chặt chẽ, thường xuyên trao đổi thông tin nhằm ứng phó với các loại tội phạm ở khu vực biên giới, nhất là tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em, buôn lậu qua biên giới, sản xuất, buôn bán, vận chuyển, lạm dụng ma tuý và nhiều loại tội phạm khác, góp phần vào sự ổn định an ninh - chính trị, kinh tế - xã hội, cũng như sự phát triển bền vững của hai quốc gia[4].

1.2. Hợp tác phát triển kinh tế vùng biên giới

Hiện nay, các tỉnh biên giới của hai nước đều triển khai các hợp tác thương mại, du lịch, đầu tư và năng lượng. Hai bên cũng đẩy mạnh hợp tác phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp nhằm khai thác tiềm năng, lợi thế của mỗi bên; tăng cường hợp tác đầu tư phát triển thương mại, dịch vụ trong cơ chế hợp tác của Tam giác phát triển Campuchia - Lào - Việt Nam (CLV). Một số địa phương biên giới đã chú trọng đầu tư nâng cấp các cửa khẩu, chợ biên giới nhằm tạo điều kiện cho nhân dân hai bên mua bán, trao đổi hàng hóa. Việc đảm bảo mua bán điện phục vụ nhu cầu sử dụng phù hợp với khả năng đã được các địa phương triển khai tốt.

Công tác ngoại giao, các hoạt động hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư hai nước phát triển khởi sắc. Theo Vụ Thị trường châu Á-châu Phi (Bộ Công Thương), Việt Nam là một trong những đối tác kinh tế, thương mại quan trọng hàng đầu của Campuchia. Thương vụ Việt Nam tại Campuchia cho biết, trong 11 tháng năm 2021, kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa giữa hai nước đạt 8,632 tỷ USD, tăng 84% so với cùng kỳ năm 2020. Trong số đó, hàng Việt Nam xuất khẩu sang Campuchia đạt 4,35 tỷ USD, tăng 17% và hàng Campuchia xuất sang Việt Nam đạt 4,282 tỷ USD, tăng 337% so với cùng kỳ năm ngoái[9].

1.3. Hợp tác văn hóa, giáo dục, y tế

Về hợp tác giáo dục, bên cạnh chương trình hỗ trợ đào tạo cấp nhà nước, hầu hết các tỉnh giáp biên của Việt Nam đều có các hoạt động hỗ trợ cho các tỉnh phía Campuchia, nhiều tỉnh khu vực biên giới thực hiện các chương trình trao đổi sinh viên, tiếp nhận học sinh, sinh viên là con em người Campuchia gốc Việt cũng như sinh viên Campuchia sang học tập.

Trong lĩnh vực y tế, ngành y tế các tỉnh kết hợp với lực lượng quân y trên địa bàn tỉnh có các hoạt động hợp tác hỗ trợ nhiều mặt cho các tỉnh giáp biên phía Campuchia. Các tỉnh biên giới cũng tổ chức nhiều đoàn y, bác sĩ sang khám bệnh, cấp thuốc và tặng quà miễn phí cho dân cư, nhất là dân cư nghèo các xã biên giới; các đồn biên phòng cửa khẩu tổ chức khám, chữa bệnh và phát thuốc cho hàng ngàn lượt cư dân bên kia biên giới sang khám, chữa bệnh.

1.4. Hợp tác giữa các lực lượng trực tiếp quản lý biên giới

Bộ đội Biên phòng Việt Nam đã cùng với các lực lượng bảo vệ biên giới Campuchia thiết lập mối quan hệ gắn bó, đoàn kết, phối hợp thực hiện tốt các hiệp định và quy chế quản lý biên giới, cửa khẩu; thường xuyên phối hợp tuần tra chung, kịp thời trao đổi thông tin, ngăn chặn hiệu quả các hoạt động xuất nhập cảnh trái phép, đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm qua biên giới, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân hai bên biên giới qua lại làm ăn, phát triển sản xuất và ổn định cuộc sống... Đặc biệt, lực lượng bảo vệ biên giới hai nước đã có nhiều hoạt động thiết thực, mô hình hợp tác hiệu quả để tăng cường sự tin cậy, tương trợ lẫn nhau. Đến nay đã có 32 cặp kết nghĩa đồn trạm giữa bộ đội biên phòng Việt Nam với lực lượng tương ứng của Campuchia; 45 cặp kết nghĩa cụm dân cư. Ngoài ra, Bộ đội Biên phòng Việt Nam đã nhận đỡ đầu 102 học sinh là con em đồng bào vùng biên giới Campuchia, với mức hỗ trợ 500.000 đồng/tháng/em[7].

Trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, với vai trò là một trong những lực lượng tuyến đầu của Chính phủ mỗi nước trên mặt trận phòng, chống dịch, lực lượng bảo vệ biên giới hai nước đã phối hợp chặt chẽ, hiệu quả trong việc kiểm soát đường mòn, lối mở, ngăn chặn, không để dịch bệnh lây lan qua biên giới. Hai bên cũng đã kịp thời chia sẻ khó khăn, hỗ trợ nhau vật tư, trang thiết bị y tế phòng, chống dịch, qua đó củng cố thêm tình cảm gắn kết, tương thân tương ái giữa quân đội hai nước.

2. Một số khuyến nghị nhằm tăng cường hợp tác phát triển giữa các tỉnh biên giới Việt Nam - Campuchia

Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh hợp tác cắm mốc biên giới Việt Nam với Campuchia

Theo các điều ước quốc tế đã ký kết, các thỏa thuận giữa Chính phủ hai nước. Việt Nam và Campuchia cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa hoạt động thông tin đối ngoại, tuyên truyền, nâng cao nhận thức của nhân dân, nhất là khu vực vùng biên giới về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển; ủng hộ các hoạt động gắn kết giữa nhân dân và chính quyền khu vực biên giới.

Thứ hai, Việt Nam và Campuchia cần tiếp tục củng cố các cơ chế hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh

Hai nước cần tiếp tục khẳng định việc tôn trọng và thực hiện nghiêm túc cam kết không cho phép bất kỳ lực lượng thù địch nào sử dụng lãnh thổ của mình để xâm hại an ninh và ổn định của nước kia; duy trì cơ chế giao ban định kỳ cấp tỉnh, huyện hai bên biên giới bảo đảm hiệu quả, tránh hình thức. Việt Nam và Campuchia cần chú ý công tác phối hợp giữa công an các địa phương giáp biên, các văn phòng liên lạc qua biên giới trong bảo đảm an ninh, trật tự ở khu vực biên giới. Trước hết, cần thúc đẩy hiệu quả hợp tác giữa Bộ Công an Việt Nam và Bộ Nội vụ Campuchia theo tinh thần các hiệp định, thỏa thuận đã ký kết giữa hai chính phủ và hai bộ. Hai nước cần tăng cường trao đổi, giao lưu, hỗ trợ lẫn nhau, củng cố quan hệ giữa các cấp chính quyền và Công an các địa phương giáp biên, đưa hoạt động này đi vào chiều sâu.

Thứ ba, tăng cường hợp tác thương mại, đầu tư, đẩy mạnh kết nối giữa hai nền kinh tế

Đẩy mạnh hoàn tất "Quy hoạch tổng thể kết nối hai nền kinh tế Việt Nam - Campuchia đến năm 2030"; tích cực triển khai tập trung vào các lĩnh vực trọng tâm và các dự án hợp tác trọng điểm, trong đó có các dự án đầu tư của Việt Nam tại Campuchia trong lĩnh vực nông nghiệp, trồng cây công nghiệp, viễn thông, ngân hàng...; thúc đẩy triển khai dự án đường cao tốc Bavet - Mộc Bài kết nối Thành phố Hồ Chí Minh với Phnom Penh; sớm ký kết

Hiệp định Thương mại biên giới để tạo điều kiện cho hàng hoá hai bên tiếp cận thị trường của nhau; nâng cao chất lượng và hiệu quả hợp tác giáo dục - đào tạo...

Kết luận

Với quan hệ truyền thống hữu nghị và tình đoàn kết đặc biệt vốn có, cùng với những kinh nghiệm của chặng đường gần thế kỷ qua, quan hệ hợp tác giữa Việt Nam - Campuchia cần phát huy hơn nữa hiệu quả hợp tác và khắc phục được những khó khăn. Việc thực hiện một số giải pháp trên sẽ góp phần xây dựng biên giới Việt Nam - Campuchia trở thành biên giới hòa bình, hữu nghị và hợp tác; bảo đảm hoạt động giao lưu, hợp tác, buôn bán hàng hóa của nhân dân sinh sống hai bên đường biên giới với mục tiêu từng bước xây dựng hai nước đạt được nhiều thành tựu to lớn trong công cuộc xây dựng và phát triển của mỗi nước, góp phần phát triển cộng đồng ASEAN, khu vực và thế giới.

Tài liệu tham khảo:

[1] Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Trà Vinh, Tài liệu tuyên truyền: Công tác biên giới trên đất liền Việt Nam - Campuchia, https://thptphandangluu.hcm.edu.vn

[2] Huỳnh Minh Chính, Pháp luật quốc tế về việc vạch biên giới giữa Việt Nam với các quốc gia láng giềng, http://hoangsa.org

[3] Hiệp ước Hoạch định biên giới quốc gia giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Campuchia (27/12/1985).

[4] Hiệp ước giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Vương quốc Campuchia bổ sung.

[5] Hiệp ước Hoạch định biên giới quốc gia năm 1985 (10/10/2005).

[6] Bùi Nam Khánh & Đỗ Thị Thanh Bình (2018), Hợp tác giữa Việt Nam và Cam-pu-chia trong đảm bảo an ninh tuyến biên giới đất liền, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 112, tháng 01 năm 2018.

[7] Phan Mích (2022), Hợp tác kinh tế Việt Nam - Campuchia: Ngày càng hiệu quả, thực chất, https://baoquocte.vn

[8] Phạm Bình Minh (2019), Vì đường biên giới Việt Nam - Campuchia hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, http://baochinhphu.vn

[9] Theo Văn Phúc, Tháo gỡ khó khăn xuất nhập khẩu tại các cửa khẩu với Campuchia, http://baogialai.com.vn

[10] Quang Thanh (2019), Việt Nam và Campuchia ký hai văn kiện quan trọng về cắm mốc biên giới, http://vneconomy.vn

[11] Thông tấn xã Việt Nam (2022), Hội nghị công tác biên giới trên đất liền Việt Nam - Campuchia, ngày 18/8/2022.

Đọc thêm

Hành trình từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa cộng sản của đồng chí Nguyễn Chí Diểu

Tác giả: Nguyễn Thị Minh Thùy

(GDLL) - Nguyễn Chí Diểu (1908-1939), một trong những đảng viên thuộc lớp đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhà lãnh đạo tiền bối tiêu biểu của Đảng và cách mạng Việt Nam. Cuộc đời đồng chí là tấm gương cao đẹp của người cộng sản hết lòng vì nước, vì dân. Bài viết tìm hiểu quá trình chuyển biến từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa cộng sản, qua đó thấy được sự kiên định, vì nước vì dân của đồng chí.

Hợp tác xã trong liên kết chuỗi giá trị nông sản ở An Giang hiện nay

Tác giả: Trần Văn Hiển

(GDLL) - Liên kết chuỗi giá trị nông sản là mô hình kinh tế đem lại lợi ích thiết thực cho các chủ thể tham gia và góp phần tích cực vào chuyển đổi cơ cấu sản xuất, phát triển nông nghiệp bền vững trong điều kiện cạnh tranh toàn cầu. Trên cơ sở những nhận thức cơ bản về chuỗi giá trị nông sản: khái niệm, hình thức, sơ đồ, mô hình liên kết…, bài viết khái quát kết quả, vai trò của hợp tác xã trong liên kết chuỗi giá trị nông sản và đề xuất một số giải pháp phát huy vai trò của hợp tác xã trong liên kết chuỗi giá trị nông sản ở An Giang.

30 năm quan hệ hợp tác Việt Nam - Hàn Quốc (1992 - 2022): Thành tựu và triển vọng

Tác giả: NGUYỄN VĂN ĐỨC - NGUYỄN THỊ THÚY

(GDLL) - Trải qua 30 năm, quan hệ Việt Nam và Hàn Quốc đã có bước phát triển toàn diện, bền vững, mang lại lợi ích cho cả hai dân tộc. Bài viết khái quát những thành tựu tốt đẹp đã gặt hái được trong quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc 30 năm qua (1992 - 2022) và chỉ ra một số hạn chế còn tồn tại. Từ đó, đưa ra định hướng, khuyến nghị nhằm thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Hàn Quốc lên tầm cao mới.

Phát huy vai trò của các tổ chức khoa học và công nghệ ngoài công lập để góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Tác giả: PGS. TS. Phạm Ngọc Linh

(TG) - Sự phát triển nhanh chóng của các tổ chức KH&CN ngoài công lập trực thuộc LHHVN đã nâng cao vai trò của LHHVN trong việc tập hợp đoàn kết trí thức KH&CN phục vụ mục tiêu CNH, HĐH đất nước. Các tổ chức KH&CN này được đánh giá là nhân tố mới ở Việt Nam trong công tác tham gia xã hội hóa các hoạt động KH&CN, GD&ĐT, chăm sóc sức khỏe nhân dân, phát triển cộng đồng, xóa đói giảm nghèo và bảo vệ môi trường.

Chuyển đổi số trong xây dựng nông thôn mới hướng tới mô hình làng thông minh

Tác giả: TS ĐỖ THỊ PHƯƠNG HOA

(LLCT) - Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang mở ra một kỷ nguyên mới trong sự phát triển của nhân loại. Chuyển đổi số trở thành xu hướng phát triển của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Bài viết phân tích chủ trương về chuyển đổi số trong nông nghiệp, nông thôn và xây dựng làng thông minh ở nước ta, chỉ ra thực trạng một số mô hình làng thông minh hiện nay, từ đó đề xuất giải pháp tăng cường chuyển đổi số trong xây dựng nông thôn mới, hướng tới nông thôn thông minh trong thời gian tới.