Từ khóa:Biên giới
lãnh thổ; Campuchia; hợp tác phát triển; Việt Nam.
Thủ tướng Phạm Minh Chính và Thủ tướng Campuchia Samdech Techo
Hun Sen tham dự Diễn đàn Xúc tiến Đầu tư và thương mại Việt Nam - Campuchia
(Ảnh: TTXVN)
Đặt vấn đề
Ngày 24/6/1967, Việt Nam và Campuchia đã chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao, mở ra một chương
mới trong lịch sử chung của hai dân tộc. Trên cơ sở Hiệp định về quy
chế biên giới năm 1983 và Hiệp ước về hoạch định biên giới năm 1985 (bổ sung
năm 2005 và năm 2019) và thỏa thuận của lãnh đạo cấp cao hai nước, các cơ quan
chức năng, chính quyền và nhân dân địa phương các tỉnh biên giới hai bên đã nỗ lực xây dựng đường biên giới chung hòa bình, hữu nghị,
hợp tác và phát triển. Năm 2019, hai bên đã ký hai văn kiện pháp lý ghi nhận
thành quả phân giới, cắm mốc khoảng 84% và hiện hai bên đang tiếp tục đàm phán
giải quyết 16% còn lại. Quan hệ giữa các tỉnh biên giới Việt Nam - Campuchia
trên các mặt kinh tế, thương mại, đầu tư gần đây phát triển tích cực và đạt
được những kết quả đáng khích lệ[11].
1. Thực trạng hợp tác phát triển giữa Việt Nam với
Campuchia trên một số lĩnh vực
Đường biên giới trên đất liền Việt Nam và Campuchia dài
khoảng 1.137 km, điểm khởi đầu là giao điểm đường biên giới ba nước Việt Nam -
Campuchia - Lào, điểm kết thúc trên bờ vịnh Thái Lan tiếp giáp giữa tỉnh Kiên
Giang (Việt Nam) và tỉnh Kămpốt (Campuchia); đi qua địa giới hành chính 10 tỉnh
của Việt Nam (Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Bình
Phước, Tây Ninh, Long An, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang), tiếp giáp với 9
tỉnh của Campuchia(Ratanakiri,
Mônđulkiri, -Kratié, Tboung Khmum, Svayriêng, Prêyveng, Kanđal, Tàkeo, Kămpốt)[2].
Tính đến
tháng 8/2022, trên toàn tuyến biên giới đất
liền Việt Nam - Campuchia có tổng số 33 cửa khẩu đang hoạt động[1]. Hiện
nay, Việt Nam và Campuchia đang tiếp tục xem xét việc mở mới và nâng cấp một số
cửa khẩu nhằm đáp ứng nhu cầu qua lại và giao lưu hợp tác qua biên giới ngày
càng cao giữa hai nước và quốc tế.
1.1. Hợp tác cắm mốc biên
giới Việt Nam - Campuchia
Hai nước
đã ký được hệ thống các điều ước quốc tế song phương, làm cơ sở pháp lý để giải
quyết vấn đề biên giới lãnh thổ và thực hiện công tác phân giới, cắm mốc. Đến
nay, Việt Nam và Campuchia đã ký 07 văn bản song phương để giải quyết vấn đề
biên giới đất liền: Hiệp ước về nguyên tắc giải quyết vấn đề
biên giới Việt Nam - Campuchia (ngày
20/7/1983); Hiệp ước về quy chế biên giới quốc gia Việt Nam - Campuchia (ngày
20/7/1983); Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia Việt Nam - Campuchia (ngày
27/12/1985); Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia Việt Nam -
Campuchia năm 1985 (ngày 10/10/2005); Bản ghi nhớ về việc điều chỉnh đường biên
giới trên bộ đối với một số khu vực còn tồn đọng (ngày 23/4/2011); Hiệp ước bổ
sung Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia năm 1985 và Hiệp ước bổ sung năm
2005 và Nghị định thư phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền giữa hai nước
(ngày 05/10/2019), 01 Hiệp ước về vùng nước lịch sử Việt
Nam - Campuchia (ngày 07/7/1982) và Hiệp ước xác định giao điểm đường biên giới
ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia (ngày
26/8/2008). Đây là những văn bản pháp lý quan trọng và được ký kết vào
những thời điểm lịch sử, tạo cơ sở cho việc giải quyết vấn đề biên giới giữa
hai nước, giải quyết những vấn đề khó khăn trong thực tiễn
việc triển khai công tác phân giới, cắm mốc. Qua việc ký Hiệp ước bổ sung 2005,
Việt Nam và Campuchia cùng tái khẳng định giá trị pháp lý của các Hiệp định
biên giới hai nước đã ký trong những năm 80 của thế kỷ XX, đáp ứng
mối quan tâm của chính quyền và nhân dân hai bên biên giới, nối lại tiến trình
phân giới, cắm mốc nhằm xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác
cùng phát triển giữa hai dân tộc.
Việc
Việt Nam và Campuchia tiếp tục ký Hiệp
ước bổ sung 2019 và Nghị định thư phân giới, cắm mốc đã cho thấy
thiện chí, quyết tâm, trách nhiệm của hai bên trong việc giải quyết những khó
khăn trong vấn đề biên giới lãnh thổ trên cơ sở của luật pháp quốc tế[6]. Việc ký
kết các văn bản pháp lý với Campuchia, không chỉ tạo động lực, điều kiện cho
việc giải quyết công tác phân giới, cắm mốc giữa Việt Nam và Campuchia từ năm
1985 đến nay mà còn khẳng định chủ trương nhất quán của Việt Nam là giải quyết
tốt công tác biên giới lãnh thổ của các quốc gia láng giềng phù hợp với luật
pháp quốc tế để làm cơ sở cho quan hệ lâu dài giữa các quốc gia.
Sau khi
ký Hiệp ước bổ sung 2005, Việt Nam - Campuchia đã tái khởi động công tác phân
giới, cắm mốc trên toàn tuyến biên giới đất liền hai nước. Đến tháng 10/2019,
Việt Nam và Campuchia đã hoàn thành khoảng 84% khối lượng công tác phân giới,
cắm mốc trên toàn tuyến, với khoảng 1.045/1.137 km đường biên giới đất liền,
xây dựng được 315/371 cột mốc chính, 1.511 cột mốc phụ và 221 cọc dấu[8], trong
đó đã cắm được cột mốc ở hầu hết các vị trí quan trọng như các cửa khẩu, nơi có
đường giao thông cắt qua biên giới, nơi tập trung đông dân cư, đặc biệt đã cắm
được cột mốc ở điểm đầu và điểm cuối của biên giới đất liền. Hai bên đã quy
thuộc được 111 cồn bãi trên sông, suối
biên giới, trong đó có 43 cồn bãi thuộc Việt Nam, 68 cồn bãi thuộc Campuchia;
có 03 tỉnh của Việt Nam đã hoàn thành việc xác định vị trí và xây dựng cột mốc
chính và cơ bản hoàn thành công tác phân giới
trên thực địa (Kon Tum, Bình Phước, Đồng Tháp)[5]. Việt Nam và Campuchia đã hoàn thành việc
hoán đổi các diện tích quản lý vượt quá sang nhau theo MOU và áp dụng mô hình
MOU tại 06 cặp tỉnh:Tây Ninh - Tboung Khmum, Svay Rieng; Đồng Tháp - Pray
Veng; An Giang - Takeo và Kiên Giang - Takeo, Kampot; hoàn
thiện hồ sơ phân giới, cắm mốc (gồm Hồ sơ mốc quốc giới, Hồ sơ phân giới, Bảng
quy thuộc cồn bãi và các văn bản pháp lý liên quan khác) và hoàn chỉnh việc
thành lập Bộ bản đồ đường biên giới quốc gia Việt Nam - Campuchia.
Công tác
thông tin đối ngoại, tuyên truyền về hợp tác giữa hai nước trong giải quyết vấn
đề biên giới lãnh thổ đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần quảng bá
chính sách hai nước. Chính phủ hai nước thường xuyên chỉ đạo, định hướng các cơ
quan truyền thông, thông tấn, báo chí từ trung ương
đến địa phương tăng cường, chủ động đưa tin, bài chất lượng, phản ánh chân
thực, sinh động, sâu sắc kết quả hợp tác giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ;
tăng cường công tác thông tin đối ngoại, xây dựng và xuất bản các ấn phẩm thông
tin, tuyên truyền phong phú, đa dạng; sử dụng các ấn phẩm thông tin hiện đại, tích
cực tuyên truyền đối ngoại về vấn đề biên giới lãnh thổ. Công tác
thông tin đối ngoại, tuyên truyền góp phần quan trọng làm cho cộng đồng quốc tế
hiểu rõ đường lối, chính sách đối ngoại của Việt Nam và Campuchia; đồng thời,
giúp nhân dân hai nước hiểu rõ về ý nghĩa quan hệ truyền thống hữu nghị giữa
hai nước, tầm quan trọng của việc xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị,
hợp tác và phát triển. Qua đó, tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế, hệ
thống chính trị và nhân dân hai nước vào chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước Việt Nam và Vương quốc Campuchia trong giải quyết
vấn đề biên giới lãnh thổ.
Song song
với việc giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ, phân giới, cắm mốc trên thực
địa, Việt Nam và Campuchia đã tăng cường hợp tác trong việc bảo đảm an ninh,
trật tự trên tuyến biên giới, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động hợp tác
khu vực biên giới, góp phần xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp
tác và phát triển. Các đơn vị chức năng Việt Nam và Campuchia đã phối hợp tốt
trong khảo sát, lập sơ đồ tuyến biên giới, các khu vực tranh chấp về đất đai,
các điểm nóng về xâm canh, xâm cư; giải quyết các vụ, việc làm hư hại các cọc
dấu, cột phương vị do bị phá trộm hoặc người dân làm hư hại trong quá trình
canh tác sản xuất, góp phần bảo đảm tiến độ phân giới, cắm mốc. Đồng thời, hai
nước đã phối hợp hiệu quả trong công tác đấu tranh với các hoạt động phá hoại
công tác phân giới, cắm mốc. Bên cạnh đó, công tác đấu tranh với các loại tội
phạm được triển khai hiệu quả, góp phần bảo đảm an ninh, trật tự địa bàn khu
vực biên giới hai nước. Các lực lượng chức năng hai nước đã hợp tác chặt chẽ,
thường xuyên trao đổi thông tin nhằm ứng phó với các loại tội phạm ở khu vực
biên giới, nhất là tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em, buôn lậu qua biên giới,
sản xuất, buôn bán, vận chuyển, lạm dụng ma tuý và nhiều loại tội phạm khác,
góp phần vào sự ổn định an ninh - chính trị, kinh tế - xã hội, cũng như sự phát
triển bền vững của hai quốc gia[4].
1.2. Hợp tác phát triển kinh tế vùng biên giới
Hiện nay,
các tỉnh biên giới của hai nước đều triển khai các hợp tác
thương mại, du lịch, đầu tư và năng lượng. Hai bên cũng đẩy mạnh hợp tác phát
triển nông nghiệp, lâm nghiệp nhằm khai thác tiềm năng, lợi thế của mỗi bên;
tăng cường hợp tác đầu tư phát triển thương
mại, dịch vụ trong cơ chế hợp tác của Tam giác phát triển Campuchia - Lào - Việt
Nam (CLV). Một số địa phương biên giới đã chú trọng đầu tư nâng cấp các
cửa khẩu, chợ biên giới nhằm tạo điều kiện cho nhân dân hai bên mua bán, trao
đổi hàng hóa. Việc đảm bảo mua bán điện phục vụ nhu cầu sử dụng phù hợp với khả
năng đã được các địa phương triển khai tốt.
Công
tác ngoại giao, các hoạt động hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư hai nước phát
triển khởi sắc. Theo Vụ Thị trường châu Á-châu Phi (Bộ Công Thương), Việt Nam
là một trong những đối tác kinh tế, thương mại quan trọng hàng đầu của
Campuchia. Thương vụ Việt Nam tại Campuchia cho biết, trong 11 tháng năm 2021, kim ngạch xuất, nhập
khẩu hàng hóa giữa hai nước đạt 8,632 tỷ USD, tăng 84% so với cùng kỳ năm 2020.
Trong số đó, hàng Việt Nam xuất khẩu sang Campuchia đạt 4,35 tỷ USD, tăng 17%
và hàng Campuchia xuất sang Việt Nam đạt 4,282 tỷ USD, tăng 337% so với cùng kỳ
năm ngoái[9].
1.3. Hợp tác văn hóa, giáo dục, y tế
Về hợp
tác giáo dục, bên cạnh chương trình hỗ trợ đào tạo cấp nhà nước, hầu hết các
tỉnh giáp biên của Việt Nam đều có các hoạt động hỗ trợ cho các tỉnh phía
Campuchia, nhiều tỉnh khu vực biên giới thực hiện các chương trình trao đổi
sinh viên, tiếp nhận học sinh, sinh viên là con em người Campuchia gốc Việt
cũng như sinh viên Campuchia sang học tập.
Trong
lĩnh vực y tế, ngành y tế các tỉnh kết hợp với lực lượng quân y trên địa bàn
tỉnh có các hoạt động hợp tác hỗ trợ nhiều mặt cho các tỉnh giáp biên phía Campuchia. Các tỉnh biên giới cũng tổ chức nhiều đoàn
y, bác sĩ sang khám bệnh, cấp thuốc và tặng quà miễn phí cho dân cư, nhất là
dân cư nghèo các xã biên giới; các đồn biên phòng cửa khẩu tổ chức khám, chữa
bệnh và phát thuốc cho hàng ngàn lượt cư dân bên kia biên giới sang khám, chữa
bệnh.
1.4.
Hợp tác giữa các lực lượng trực
tiếp quản lý biên giới
Bộ
đội Biên phòng Việt Nam đã cùng với các lực lượng bảo vệ biên giới Campuchia
thiết lập mối quan hệ gắn bó, đoàn kết, phối hợp thực hiện tốt các hiệp định và
quy chế quản lý biên giới, cửa khẩu; thường xuyên phối hợp tuần tra chung, kịp
thời trao đổi thông tin, ngăn chặn hiệu quả các hoạt động xuất nhập cảnh trái
phép, đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm qua biên giới, tạo điều kiện
thuận lợi cho nhân dân hai bên biên giới qua lại làm ăn, phát triển sản xuất và
ổn định cuộc sống... Đặc biệt, lực lượng bảo vệ biên giới hai nước đã có nhiều
hoạt động thiết thực, mô hình hợp tác hiệu quả để tăng cường sự tin cậy, tương
trợ lẫn nhau. Đến nay đã có 32 cặp kết nghĩa đồn trạm giữa bộ đội biên phòng
Việt Nam với lực lượng tương ứng của Campuchia; 45 cặp kết nghĩa cụm dân cư.
Ngoài ra, Bộ đội Biên phòng Việt Nam đã nhận đỡ đầu 102 học sinh là con em đồng
bào vùng biên giới Campuchia, với mức hỗ trợ 500.000 đồng/tháng/em[7].
Trong
bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, với vai trò là một trong những lực lượng tuyến đầu của Chính phủ mỗi nước trên mặt
trận phòng, chống dịch, lực lượng bảo vệ biên giới hai nước đã phối hợp chặt
chẽ, hiệu quả trong việc kiểm soát đường mòn, lối mở, ngăn chặn, không để dịch
bệnh lây lan qua biên giới. Hai bên cũng đã kịp thời chia sẻ khó khăn, hỗ trợ
nhau vật tư, trang thiết bị y tế phòng, chống dịch, qua đó củng cố thêm tình
cảm gắn kết, tương thân tương ái giữa quân đội hai nước.
2. Một số khuyến nghị nhằm tăng cường hợp tác phát triển giữa các tỉnh
biên giới Việt Nam - Campuchia
Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh hợp tác cắm mốc biên giới Việt Nam
với Campuchia
Theo
các điều ước quốc tế đã ký kết, các thỏa thuận giữa Chính phủ hai nước. Việt
Nam và Campuchia cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa hoạt động thông tin đối ngoại,
tuyên truyền, nâng cao nhận thức của nhân dân, nhất là khu vực vùng biên giới
về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu
nghị, hợp tác cùng phát triển; ủng hộ các hoạt động gắn kết giữa nhân dân và
chính quyền khu vực biên giới.
Thứ hai, Việt Nam và Campuchia cần tiếp tục củng cố các cơ chế
hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh
Hai
nước cần tiếp tục khẳng định việc tôn trọng và thực hiện nghiêm túc cam kết
không cho phép bất kỳ lực lượng thù địch nào sử dụng lãnh thổ của mình để xâm
hại an ninh và ổn định của nước kia; duy trì cơ chế giao ban định kỳ cấp tỉnh,
huyện hai bên biên giới bảo đảm hiệu quả, tránh hình thức. Việt Nam và
Campuchia cần chú ý công tác phối hợp giữa công an các địa phương giáp biên,
các văn phòng liên lạc qua biên giới trong bảo đảm an ninh, trật tự ở khu vực
biên giới. Trước hết, cần thúc đẩy hiệu quả hợp tác giữa Bộ Công an Việt Nam và
Bộ Nội vụ Campuchia theo tinh thần các hiệp định, thỏa thuận đã ký kết giữa hai
chính phủ và hai bộ. Hai nước cần tăng cường trao đổi, giao lưu, hỗ trợ lẫn
nhau, củng cố quan hệ giữa các cấp chính quyền và Công an các địa phương giáp
biên, đưa hoạt động này đi vào chiều sâu.
Thứ ba, tăng cường hợp tác thương mại, đầu tư, đẩy mạnh kết
nối giữa hai nền kinh tế
Đẩy
mạnh hoàn tất "Quy hoạch tổng thể kết nối hai nền kinh tế Việt Nam -
Campuchia đến năm 2030"; tích cực triển khai tập trung vào các lĩnh vực
trọng tâm và các dự án hợp tác trọng điểm, trong đó có các dự án đầu tư của Việt Nam tại Campuchia trong lĩnh vực nông nghiệp,
trồng cây công nghiệp, viễn thông, ngân hàng...; thúc đẩy triển khai dự án
đường cao tốc Bavet - Mộc Bài kết nối Thành phố Hồ Chí Minh với Phnom Penh; sớm ký kết
Hiệp
định Thương mại biên giới để tạo điều kiện cho hàng hoá hai bên tiếp cận thị
trường của nhau; nâng cao chất lượng và hiệu quả hợp tác giáo dục - đào tạo...
Kết luận
Với
quan hệ truyền thống hữu nghị và tình đoàn kết đặc biệt vốn có, cùng với những
kinh nghiệm của chặng đường gần thế kỷ qua, quan hệ hợp tác giữa Việt Nam - Campuchia cần phát huy hơn nữa hiệu quả hợp
tác và khắc phục được những khó khăn. Việc thực hiện một số giải pháp trên sẽ
góp phần xây dựng biên giới Việt Nam - Campuchia
trở thành biên giới hòa bình, hữu nghị và hợp tác; bảo đảm hoạt động giao lưu,
hợp tác, buôn bán hàng hóa của nhân dân sinh sống hai bên đường biên giới với
mục tiêu từng bước xây dựng hai nước đạt được nhiều thành tựu to lớn
trong công cuộc xây dựng và phát triển của mỗi nước, góp phần phát triển cộng
đồng ASEAN, khu vực và thế giới.
Tài liệu tham khảo:
[1] Ban
Tuyên giáo Tỉnh ủy Trà Vinh, Tài liệu tuyên
truyền: Công tác biên giới trên đất liền Việt Nam - Campuchia,
https://thptphandangluu.hcm.edu.vn
[2] Huỳnh Minh Chính, Pháp luật quốc tế
về việc vạch biên giới giữa Việt Nam với các quốc gia láng giềng,
http://hoangsa.org
[3] Hiệp ước Hoạch định biên giới quốc gia giữa nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Campuchia (27/12/1985).
[4] Hiệp ước giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Vương quốc
Campuchia bổ sung.
[5] Hiệp ước Hoạch định biên giới quốc gia năm 1985 (10/10/2005).
[6] Bùi Nam Khánh & Đỗ Thị Thanh Bình (2018), Hợp tác giữa Việt Nam và Cam-pu-chia
trong đảm bảo an ninh tuyến biên giới đất liền, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 112, tháng 01 năm 2018.
[7] Phan
Mích
(2022), Hợp tác kinh tế Việt Nam - Campuchia: Ngày càng hiệu quả, thực chất,
https://baoquocte.vn
[8] Phạm Bình Minh (2019),
Vì đường biên giới Việt Nam - Campuchia hòa
bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, http://baochinhphu.vn
[9] Theo Văn Phúc, Tháo gỡ khó khăn xuất
nhập khẩu tại các cửa khẩu với Campuchia, http://baogialai.com.vn
[10] Quang Thanh (2019), Việt Nam
và Campuchia ký hai văn kiện quan trọng về cắm mốc biên giới, http://vneconomy.vn
[11] Thông tấn xã Việt Nam (2022), Hội nghị công tác biên giới trên đất liền Việt Nam -
Campuchia,
ngày 18/8/2022.