Đoàn Chủ tịch biểu quyết thông qua Chương trình làm việc của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII Đảng Cộng sản Việt Nam. Ảnh: TTXVN
Trong điều
kiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội cùng với việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, muốn thúc đẩy quá trình phát triển toàn diện đất nước đòi hỏi Việt Nam phải
không ngừng phát triển khoa học, công nghệ (KHCN) và đổi mới sáng tạo (ĐMST).
Lĩnh vực KHCN và ĐMST ở Việt Nam thời gian qua đã đạt nhiều kết quả to lớn tuy
nhiên còn tồn tại những hạn chế. Thực trạng đó đã và đang đặt ra yêu cầu cần phải
quán triệt và vận dụng tốt hơn nữa các chủ trương của Đảng được đề ra tại Đại hội
XIII để tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả ứng dụng KHCN và ĐMST
trong các ngành nghề, lĩnh vực của đời sống xã hội trong bối cảnh hiện nay.
1. Một số thành tựu và hạn chế của
phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong các ngành nghề, lĩnh vực
của đời sống xã hội
Theo Luật
Khoa học công nghệ Việt Nam 2013: “Hoạt động khoa học và công nghệ là hoạt động
nghiên cứu khoa học, nghiên cứu và triển khai thực nghiệm, phát triển công nghệ,
ứng dụng công nghệ, dịch vụ khoa học và công nghệ, phát huy sáng kiến và hoạt động
sáng tạo khác nhằm phát triển khoa học và công nghệ”[7].
Phát triển
KHCN bao gồm tất cả các hoạt động nghiên cứu và ứng dụng. Trong đó sử dụng kết
quả nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng, thông qua việc triển khai thực nghiệm
và sản xuất thử nghiệm để hoàn thiện công nghệ hiện có, tạo ra công nghệ mới để
đưa vào sản xuất và đời sống phục vụ con người với năng suất, hiệu quả cao hơn.
Đổi mới sáng
tạo: Là việc ứng dụng thành tựu đã đạt được hoặc tạo ra công nghệ, kỹ thuật mới,
tạo ra những giải pháp để nâng cao hiệu quả, chất lượng trong sản xuất cũng như
tối ưu hóa quá trình quản lý ở mọi mặt kinh tế, đời sống xã hội. ĐMST là một
yêu cầu cần thiết để đảm bảo sự tồn tại và phát triển bền vững trong môi trường
biến động nhanh, linh hoạt và có tính cạnh tranh cao.
Thành
tựu
Hướng trọng
tâm hoạt động khoa học, công nghệ vào phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
phát triển chiều sâu góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả và
nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế_Nguồn ảnh: https://hdll.vn/
- Về KHCN:
Khoa học,
công nghệ phát triển tác động mạnh mẽ tới các ngành, các lĩnh vực của đời sống
xã hội góp phần lớn thúc đẩy kinh tế Việt Nam tăng trưởng vượt bậc. Các ngành dịch
vụ có tiềm năng lợi thế, có hàm lượng KHCN cao được tập trung phát triển. Cụ thể:
Về lĩnh vực
công nghiệp: Giá trị sản phẩm công nghệ cao, ứng dụng công nghệ tăng từ 26% năm
2010 lên trên 40% năm 2019. Tỷ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao
trong tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa tăng từ 19% năm 2010 lên khoảng 50% năm
2020[4]. Trong công nghiệp, KHCN đã chế tạo
thành công nhiều thiết bị, dây chuyền sản xuất, chủng loại vật liệu mới phục vụ
phát triển ngành cơ khí chế tạo, năng lượng, công nghiệp hỗ trợ, nông nghiệp...
Về lĩnh vực
nông nghiệp: KHCN giúp các ngành địa phương chọn tạo, công nhận chính thức 32
giống cây trồng, vật nuôi, 36 tiến bộ kỹ thuật, trong đó 2 giống lúa được sản
xuất quy mô lớn; nghiên cứu thành công việc sinh sản nhân tạo nhiều nguồn gen
thủy sản có giá trị kinh tế cao...
Trong những
năm qua, cơ chế, chính sách phát triển nguồn nhân lực KHCN chất lượng cao ngày
càng được đầu tư hoàn thiện. Điển hình như các cơ chế về nguồn vốn tài chính,
thủ tục hành chính đã tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân
trong lĩnh vực phát triển KHCN: Nhiều dự án đầu tư lớn được triển khai tại Khu
Công nghệ cao Hòa Lạc. Số vốn đăng ký và giá trị sản xuất của 3 khu công nghệ
cao quốc gia đều tăng. Cơ cấu chi cho KHCN đã có sự thay đổi theo xu hướng tích
cực: Chi từ ngân sách nhà nước là 52%; từ doanh nghiệp tăng lên 48%[5]. Nguồn nhân lực KHCN được đào tạo tăng cả về số
lượng và chất lượng trong tất cả các ngành, lĩnh vực. Theo báo cáo thống kê,
KHCN đã có những đóng góp quan trọng khi kinh tế Việt Nam tăng trưởng dương
2,91%, là một trong những quốc gia tăng trưởng cao nhất trong khu vực và trên
thế giới[5].
- Về ĐMST:
Đổi mới sáng
tạo ở Việt Nam hiện nay đang có những bước phát triển vượt bậc. Kể từ năm 2015,
chỉ số ĐMST của Việt Nam có sự cải thiện đáng kể khi tăng 10 bậc. Trong bảng xếp
hạng Chỉ số ĐMST toàn cầu (GII) 2021, Việt Nam xếp thứ 44 trên 132 quốc gia/nền
kinh tế sau khi Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) cập nhật số liệu GDP
theo tính toán mới của Việt Nam[3]. Hệ sinh
thái khởi nghiệp ĐMST ở Việt Nam bắt đầu được hình thành và phát triển mạnh mẽ.
Nguồn vốn đầu tư cho khởi nghiệp đổi mới tăng nhanh... Số lượng vốn được công bố
đầu tư vào các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo đạt xấp xỉ 1 tỷ USD liên tiếp
trong 2 năm gần đây, tăng gấp 3 lần so với năm 2017, đưa Việt Nam trở thành quốc
gia năng động thứ 3 Đông Nam Á về khởi nghiệp sáng tạo[2].
Số lượng bài
báo ISI (Thống kê trên ISIKNOWLEDGE) của Việt Nam tăng đều hàng năm. Một số
lĩnh vực khoa học tự nhiên như Toán học, Vật lý, Hóa học tiếp tục giữ thứ hạng
cao trong khu vực ASEAN. Tốc độ tăng trưởng bình quân công bố quốc tế của Việt
Nam trong giai đoạn 2016-2020 là 25,68%/năm. Tại Đông Nam Á, giai đoạn này, số
lượng công bố quốc tế của Việt Nam đứng thứ 5 với tổng số 48.366 công bố, xếp
sau Thái Lan với 87.971 công bố. Trong năm 2020 công bố quốc tế của Việt Nam có
xu hướng tăng mạnh, khi số lượng công bố của 10 tháng đầu năm đã vượt 16% so với
năm 2019[4].
Hiện nay, Đảng
và Nhà nước đã đặc biệt quan tâm chỉ đạo nhằm thúc đẩy ĐMST trên mọi lĩnh vực:
ĐMST đã được xác định là một trong những yếu tố then chốt để phát triển kinh tế
- xã hội. Quyết định số 569/QĐ-TTg, ngày 11/5/2022 của Thủ tướng Chính phủ ban
hành Chiến lược phát triển KHCN và ĐMST đến năm 2030 đã nêu rõ: Xây dựng và
phát triển hệ thống các trung tâm ĐMST quốc gia, các trung tâm ĐMST vùng,
ngành, các trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo nhằm phát triển, tích hợp hình
thành các cụm liên kết ĐMST với các khu công nghệ cao, khu dân cư, trung tâm
tài chính, quỹ đầu tư mạo hiểm, trường đại học, viện nghiên cứu.
Hạn
chế
Trước hết là
về cơ chế, chính sách. Cơ sở pháp lý hỗ trợ cho KHCN, ĐMST còn nặng về thủ tục
hành chính, chưa tạo được môi trường thuận lợi để phát huy sức sáng tạo, thu
hút nhân tài. Đào tạo, bồi dưỡng nhân lực, nhất là nguồn nhân lực trẻ ở các cơ
sở giáo dục nặng về lý thuyết, thiếu kinh nghiệm, nguồn vốn đầu tư cho KHCN còn
thấp, chưa thực sự hiệu quả.
Cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số, đang phát triển mạnh mẽ, tạo đột
phá trên nhiều lĩnh vực, mang lại những áp lực cạnh tranh giữa các nước trên thế
giới nhưng chỉ số phát triển KHCN, ĐMST của Việt Nam chưa cao. KHCN chưa thực
hiện đầy đủ vai trò “quốc sách hàng đầu”, chưa thực sự là động lực quan trọng
nhất để phát triển lực lượng sản xuất: “Năng lực và trình độ công nghệ của nền
kinh tế còn thấp. Công nghiệp vẫn chủ yếu là gia công, lắp ráp, giá trị gia
tăng không cao; công nghiệp hỗ trợ phát triển chậm, tỷ lệ nội địa hóa thấp,
tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu hiệu quả còn hạn chế”[1, tr.80].
Một số chỉ
tiêu lớn về KHCN chưa đạt được yêu cầu, như đến năm 2020, KHCN Việt Nam đạt
trình độ phát triển của nhóm các nước dẫn đầu ASEAN; chưa thực sự có giải pháp
đột phá trong phát triển nội bộ ngành.
2. Quan điểm
của Đảng về phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo tại Đại hội XIII
Thứ nhất, đẩy mạnh quá trình chuyển đổi
từ phát triển công nghiệp phụ thuộc sang nền công nghiệp sáng tạo đổi mới, chủ
động làm chủ công nghệ Nền công nghiệp ở Việt Nam về cơ bản
còn chậm phát triển, chủ yếu hoàn thiện ở những khâu cuối cùng của việc sản xuất
sản phẩm. Đại hội XIII của Đảng đánh giá: “Mô hình tăng trưởng chưa dựa trên nền
tảng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo; tính tự chủ của nền kinh tế còn thấp;
vẫn còn phụ thuộc lớn vào bên ngoài”[1, tr.211].
Do đó, khắc phục được sự phụ thuộc, đẩy mạnh ĐMST và áp dụng công nghệ mới sẽ
giúp Việt Nam hiện đại hóa hệ thống dây chuyền sản xuất sản phẩm, nâng cao năng
suất, tạo ra sản phẩm có giá trị cao. Đại hội XIII chủ trương, “thúc đẩy khởi
nghiệp sáng tạo, phát triển các ngành, lĩnh vực, các doanh nghiệp trên nền tảng
ứng dụng mạnh mẽ các thành tựu của khoa học và công nghệ, nhất là cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư”[1, tr.121].
Thứ hai, chuyển đổi
mạnh mẽ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế số, dựa trên nền tảng tri thức
Chuyển đổi
sang nền kinh tế số dựa trên nền tảng tri thức ở giai đoạn hiện nay là một
trong những điểm mới đặc biệt quan trọng của Đại hội XIII. Đại hội XIII chủ
trương “đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia; phát triển kinh tế số trên nền tảng
khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo”[1, tr.115],
trong đó con người hay tài nguyên trí tuệ là nền tảng cốt lõi, doanh nghiệp phải
là trung tâm nghiên cứu phát triển, ứng dụng và chuyển giao công nghệ, ứng dụng
công nghệ số. Chuyển đổi từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế số là sự tối
ưu hóa không giới hạn mọi khâu, mọi quy trình sản xuất. Do vậy, nền kinh tế số
và đổi mới sáng tạo trở thành động lực quyết định tăng năng suất lao động, lợi
thế cạnh tranh trong tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Ứng dụng và phát triển
công nghệ mới, ưu tiên công nghệ số, kết nối 5G và sau 5G, trí tuệ nhân tạo,
chuỗi khối (blockchain), in 3D, Internet vạn vật, an ninh mạng, năng lượng sạch,
công nghệ môi trường để chuyển đổi, nâng cao năng suất, hiệu quả của nền kinh tế.
Phát triển mạnh khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo là động lực chính của
tăng trưởng kinh tế. Thực hiện chuyển đổi số trong quản trị quốc gia, quản lý
nhà nước, sản xuất, kinh doanh, tổ chức xã hội[6].
Thứ ba, thúc đẩy quá trình đột phá đổi
mới sáng tạo nhờ nền tảng tri thức
Đại hội XIII
xác định vai trò quan trọng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đối với
quá trình phát triển ở Việt Nam: Nếu tận dụng thời cơ thuận lợi, học hỏi và ứng
dụng thành quả công nghệ của các nước tiên tiến thì ở một số lĩnh vực mũi nhọn,
có thế mạnh, Việt Nam có thể phát triển “đi cùng”, phấn đấu “vượt trước”. Đại hội
XIII cũng đưa ra quan điểm mới phát triển KHCN, ĐMST dựa vào nền tảng tri thức
phải tập trung vào nguồn lực có chất lượng cao. Đảng chủ trương: “chuyển mạnh nền
kinh tế sang mô hình tăng trưởng dựa trên tăng năng suất, tiến bộ khoa học và
công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhân lực chất lượng cao”[1,
tr.120]. Có thể thấy, ở kỳ Đại hội này, Đảng đã đặc biệt chú trọng tới mục
tiêu phát triển KHCN đi cùng với yêu cầu ĐMST, phù hợp với xu thế của cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư trên thế giới: “Đẩy mạnh phát triển một số ngành,
lĩnh vực kinh tế trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế và còn dư địa lớn để làm động
lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh
vực so với khu vực và thế giới”[1, tr.235].
3. Một số giải
pháp phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo theo quan điểm tại Đại
hội XIII của Đảng
Chủ trương “đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia; phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo” _ Nguồn ảnh:
https://hdll.vn/
Một là, quán triệt
quan điểm, chủ trương của Đại hội XIII về phát triển khoa học, công nghệ và đổi
mới sáng tạo
Đẩy mạnh
tuyên truyền và thực hiện theo chủ trương của Đảng tại Đại hội XIII, đó là:
Trong bối cảnh mới, để thực hiện được mục tiêu đến năm 2030 Việt Nam "Là
nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao” cần phải
"Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng của tiến bộ
khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo". Quán triệt các nội dung KHCN và
ĐMST đã được nêu trong dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm
2021 - 2030.
Trong thời
gian tới, các cơ quan thuộc ngành cần tập trung ưu tiên và thúc đẩy mạnh mẽ hoạt
động ĐMST để tạo điều kiện thuận lợi đưa KHCN thâm nhập, phục vụ trực tiếp phát
triển kinh tế - xã hội. Thực hiện công tác quán triệt chủ trương mới của Đảng một
cách thường xuyên, hiệu quả tại các cơ quan, đơn vị, đặc biệt là các đơn vị thuộc
ngành KHCN thông qua các buổi học tập, bồi dưỡng, đánh giá kết quả công tác dựa
trên cơ sở tiêu chí của Đảng về KHCN, ĐMST.
Hai là, tiếp tục
hoàn thiện cơ chế, chính sách về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo
Xây dựng cơ
chế, chính sách pháp luật về KHCN, ĐMST cần xuất phát từ thực tiễn phát triển của
ngành. Tập trung thảo luận, đánh giá việc xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện
chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước về đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước trong thời gian qua. Chỉ rõ những kết quả, thành tựu đã đạt được; đồng
thời phân tích sâu sắc những hạn chế, yếu kém còn tồn tại và nguyên nhân.
Hoàn thiện
thể chế, chính sách, pháp luật về KHCN, ĐMST trong đó chú trọng đến việc tháo gỡ
các rào cản, vướng mắc của các cơ chế, chính sách đặc biệt về kinh tế, đầu tư,
thương mại phục vụ cho phát triển KHCN, ĐMST. Xây dựng thêm các cơ sở pháp lý về
huy động nguồn lực về vốn, thu hút nhân lực chất lượng cao hoạt động trong lĩnh
vực KHCN, các cơ chế, chính sách thu hút nhân tài.
Ba là, tập trung
tăng cường các nguồn lực xã hội phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng
tạo
Huy động các
nguồn lực đặc biệt là nguồn lực về vốn đầu tư, nguồn lực từ các doanh nghiệp
đóng vai trò quan trọng. Tiếp tục đầu tư phát triển, hiện đại hóa cơ sở hạ tầng
phục vụ cho phát triển KHCN, ĐMST. Ưu tiên đầu tư cho các hoạt động ĐMST, bao gồm
hoạt động sáng tạo, phát triển và áp dụng các ý tưởng về sản phẩm, quá trình và
chiến lược phát triển mới đem lại hiệu quả cho doanh nghiệp, tổ chức.
Tập trung
nâng cao năng lực làm chủ và đổi mới công nghệ của doanh nghiệp. Khuyến khích
nhập khẩu, chuyển giao công nghệ tiên tiến của thế giới. Đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa trên nền tảng của tiến bộ KHCN, ĐMST cần tăng cường hơn nữa mọi
nguồn lực xã hội để tạo điều kiện cho việc nghiên cứu, “khởi nghiệp”, ứng dụng
và chuyển giao công nghệ hiệu quả hơn.
Bốn là, phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và đổi mới
sáng tạo
Đẩy
mạnh “đổi mới toàn diện giáo dục, đào tạo”, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực
chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển trong bối cảnh cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư đang phát triển mạnh mẽ. Đa dạng hóa phương thức đào tạo dựa
theo hướng giáo dục “mở” tức là việc đào tạo con người phải gắn với nhu cầu của
thị trường lao động theo hướng gắn với sự phát triển của hiện đại hóa. Tập
trung đẩy mạnh giáo dục kỹ năng, ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số; thực
hiện theo lộ trình phổ cập kỹ năng số ở các cấp bậc học phổ thông; chú trọng
rèn luyện ứng dụng công nghệ, tính thực chiến cho các sinh viên, học viên ở những
cơ sở giáo dục đào tạo chuyên ngành KHCN.
Kết
luận
Văn kiện Đại
hội XIII của Đảng với những quan điểm, chủ trương mới về phát triển KHCN, ĐMST
có ý nghĩa hết sức quan trọng, thể hiện vai trò to lớn trong định hướng phát
triển đất nước, phù hợp với mục tiêu Việt Nam trở thành nước phát triển có công
nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và xu thế của thế giới. Sự thành công ở
các lĩnh vực KHCN, ĐMST giai đoạn vừa qua đóng vai trò động lực vô cùng to lớn
cho sự phát triển nhanh và bền vững của Việt Nam nói chung, cũng như của mỗi tổ
chức KHCN và doanh nghiệp trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư và
chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ. Tuy nhiên hiện nay chúng ta vẫn phải đối mặt
với nhiều khó khăn, thách thức không nhỏ. Vì vậy, cần tập trung bám sát Văn kiện
Đại hội XIII của Đảng về KHCN, ĐMST để quán triệt vận dụng nhằm phát triển hiệu
quả hơn nữa lĩnh vực này, góp phần vào tăng trưởng kinh tế quốc gia, phấn đấu
hoàn thành mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã đề ra là vấn đề cấp bách
hiện nay.
Tài
liệu tham khảo:
[1] Đảng
Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự
thật, Hà Nội.
[2] TS.
Lê Xuân Định (2022), Tạo đột phá để khoa
học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trở thành động lực chủ yếu cho tăng trưởng
kinh tế và phát triển đất nước nhanh, bền vững, https://tapchicongsan.org.vn
[3] Hoàng
Giang (2022), Nhiều thách thức trong thúc
đẩy đổi mới sáng tạo, https://baochinhphu.vn
[4] Nguyễn
Hạnh (2020), Khoa học và công nghệ – động
lực phát triển kinh tế - xã hội, https://dangcongsan.vn
[5] Bích
Liên (2021), Khoa học công nghệ tạo đột
phá mới theo tinh thần nghị quyết Đại hội XIII,
https://daihoi13.dangcongsan.vn
[6] PGS,
TS. Hoàng Văn Phai - TS. Phùng Mạnh Cường (2021), Thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong quá
trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước - Điểm nhấn quan trọng
trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, https://www.tapchicongsan.org.vn
[7] Quốc
hội (2013), Luật Khoa học và Công nghệ số
29/2013/QH13 ngày 18 tháng 6 năm 2013, https://thuvienphapluat.vn