Chủ nhật, ngày 30/04/2023, 17:32

Phát triển du lịch cộng đồng trên cơ sở văn hóa tộc người nhằm tạo sinh kế bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc

TRỊNH VƯƠNG CƯỜNG
Học viện Chính trị khu vực I.

(GDLL) - Với lợi thế có nhiều phong cảnh thiên nhiên tươi đẹp, môi trường sinh thái trong lành và sự phong phú, đa dạng, độc đáo của bản sắc văn hóa các tộc người, Tây Bắc đã xây dựng và đưa vào khai thác nhiều làng, bản du lịch cộng đồng thu hút được nhiều du khách, đem lại sinh kế, góp phần xóa đói, giảm nghèo, nâng cao thu nhập cho người dân địa phương. Tuy nhiên, du lịch cộng đồng ở Tây Bắc vẫn còn nhiều hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng. Bài viết phân tích tiềm năng văn hóa tộc người và thực trạng phát triển du lịch cộng đồng ở Tây Bắc, từ đó, kiến nghị một số giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển du lịch cộng đồng nhằm mang lại sinh kế bền vững cho đồng bào các tộc người nơi đây.

Tây Bắc là một vùng địa lý – kinh tế lớn ở miền Bắc Việt Nam, là vùng có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch nói chung và du lịch cộng đồng nói riêng. Trước thực trạng phát triển du lịch cộng đồng trên cơ sở văn hóa tộc người nhằm tạo sinh kế bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém trong định hướng và phát triển, do đó, cần nghiên cứu và phân tích sâu sắc hơn từ đó đưa ra những gợi ý phù hợp cho giai đoạn tới.

1. Tiềm năng văn hóa tộc người trong phát triển du lịch cộng đồng vùng Tây Bắc

Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa tộc người thiểu số vùng Tây Bắc_ Nguồn ảnh http://lyluanchinhtri.vn/

Tây Bắc là địa bàn sinh sống của khoảng 25 tộc người khác nhau[1, tr.84]. Sự đa dạng thành phần tộc người đã tạo nên sự đa dạng, phong phú về văn hoá cho vùng Tây Bắc, bao gồm cả sự đa dạng văn hóa tộc người, nhóm địa phương tộc người, các tiểu vùng văn hóa và khu vực lịch sử - dân tộc học, đó là đặc trưng của vùng. Hầu hết các tộc người đều có ngôn ngữ riêng, có khả năng đáp ứng nhu cầu giao tiếp và diễn đạt mọi cung bậc tình cảm của con người, đặc biệt một số tộc người có chữ viết riêng như tộc người Mường, Thái, Mông, Dao... Các ngành nghề thủ công truyền thống đầy tính sáng tạo: thêu, dệt thổ cẩm, đan, làm đồ trang sức, gốm, rèn... ; đời sống ẩm thực với những món ăn được chế biến cầu kì và có dư vị rất riêng và đặc biệt từ những nguyên liệu tự nhiên của núi rừng như Nậm pịa, mọc, lạp (người Thái), thắng cố, bánh dày (người Mông)...; kiến trúc nhà ở hòa đồng với thiên nhiên, rất tiện lợi nhưng lại chứa đựng văn hóa, tín ngưỡng phong tục rất độc đáo; thể hiện trong những trang phục được sản xuất thủ công với đặc trưng trang phục nam thì gọn gàng, khỏe mạnh, đơn giản, trang phục nữ thì đẹp, duyên dáng, cầu kỳ, hoa văn rất đặc sắc như áo cón, khăn piêu của phụ nữ Thái, váy của phụ nữ Mông, Dao, áo ngắn và váy của phụ nữ Mường... Bên cạnh đó, đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Bắc còn có những sáng tạo văn hóa, nghệ thuật dân gian rất phong phú và đặc sắc như: Hệ thống nhạc cụ dân tộc phong phú, tiêu biểu và đặc trưng như: cồng, chiêng, trống, kèn, sáo...; nghệ thuật trình diễn như múa xòe của người Thái, khèn của Người Mông, Đâm đuống của người Mường, múa sạp của người Thái, người Mường...; và những sáng tác văn học dân gian đa dạng nhiều thể loại như: tục ngữ, câu đối, truyện cổ, sử thi... những làn điệu dân ca như: hát then, hát giao duyên sli, hát lượn, sình ca... Trong đó, có nhiều di sản văn hóa được xếp loại Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia như: Lễ Hết Chá của người Thái, xã Đông Sang, huyện Mộc Châu và nghệ thuật xòe Thái tỉnh Sơn La; Điện Biên có 3 di sản là: Lễ Kim pang then của người Thái Trắng (thị xã Mường Lay); Tết Nào pê chầu của người Mông đen (xã Mường Đăng, huyện Mường Ảng), lễ hội đền Hoàng Công Chất (xã Noong hẹt, huyện Điện Biên); Tỉnh Lai Châu có một di sản là Nghệ Thuật Xòe Thái (tỉnh Lai Châu) và Yên Bái có một di sản là nghệ thuật Xòe Thái (Mường Lò, Thị xã Nghĩa Lộ)[6] và nghệ thuật xòe Thái; nghi lễ kéo co của người Tày, người Giáy ở Lào Cai được UNESCO đưa vào danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại...[10].

Tài nguyên du lịch di sản văn hóa dân gian ở miền Bắc nước ta rất đa dạng và phong phú. Ảnh minh họa, https://baochinhphu.vn/

Tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên văn hóa, nhân văn đã tạo nên một Tây Bắc đầy bí ẩn và có sức hấp dẫn, lôi cuốn đối với khách du lịch. Du khách khi đến với Tây Bắc đồng thời sẽ được thưởng thức những kiệt tác của thiên nhiên hoang sơ, hùng vĩ, được sống trong môi trường sinh thái trong lành và được tìm hiểu, khám phá những giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc của đồng bào các dân tộc thiểu số nơi đây. Đây là nguồn tài nguyên rất giá trị để Tây Bắc có thể khai thác, phát huy trong phát triển du lịch nói chung và phát triển du lịch cộng đồng nói riêng, tạo sinh kế bền vững, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cộng đồng các dân tộc, góp phần phát triển kinh tế địa phương và toàn Vùng.

2. Thực trạng phát triển du lịch cộng đồng trên cơ sở văn hóa tộc người tạo sinh kế bền vững vùng Tây Bắc

Du lịch cộng đồng (DLCĐ) là loại hình du lịch được phát triển trên cơ sở các giá trị văn hóa của cộng đồng, do cộng đồng dân cư quản lý, tổ chức khai thác và hưởng lợi. Theo đó, cộng đồng dân cư có quyền tham gia và hưởng lợi ích hợp pháp từ hoạt động du lịch, có trách nhiệm bảo vệ tài nguyên du lịch, bản sắc văn hóa địa phương, bảo vệ môi trường. Cộng đồng dân cư được tạo điều kiện để đầu tư phát triển du lịch, khôi phục và phát huy các loại hình văn hóa, nghệ thuật dân gian, ngành nghề thủ công truyền thống góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân địa phương. Hiện nay, có các hình thức du lịch cộng đồng phổ biến như: du lịch sinh thái; du lịch nông nghiệp, nông thôn; du lịch văn hóa, nghệ thuật và hàng thủ công địa phương; du lịch bản địa...

Trong những năm qua, DLCĐ ở Tây Bắc đã phát triển nhanh chóng nhiều bản, điểm DLCĐ mới được xây dựng; cơ sở hạ tầng du lịch không ngừng cải thiện và nâng cấp; nguồn nhân lực phục vụ du lịch được đào tạo ngày càng chuyên nghiệp hơn, có thêm nhiều sản phẩm du lịch được đầu tư xây dựng mới lạ, độc đáo, hấp dẫn gắn liền với bản sắc văn hóa tộc người đáp ứng nhu cầu của du khách trong và ngoài nước... Theo thống kê, năm 2015, các bản, điểm du lịch cộng đồng tỉnh Điện Biên đón khoảng 10.000 lượt khách, trong đó có 1.500 lượt khách quốc tế. Đến năm 2019, các bản, điểm du lịch cộng đồng tỉnh Điện Biên đã đón khoảng 22.000 lượt khách (tăng 2,2 lần so với năm 2015[7]; tại tỉnh Hòa Bình, tổng số du khách đến các bản, điểm du lịch cộng đồng năm 2015 là 298.000 lượt khách, trong đó có 155.000 khách quốc tế, năm 2019 là 471.000 lượt khách (tăng 1,6 lần so với năm 2015)[5]. Ở Lào Cai, năm 2010, các điểm du lịch cộng đồng trên địa bàn tỉnh đón 184.740 lượt khách, năm 2017 tăng lên gần một triệu lượt[9]...

Văn hoá độc đáo vùng dân tộc thiểu số luôn là động lực để phát triển du lịch, thương mại miền núi - Ảnh minh họa, https://baochinhphu.vn/

Tận dụng lợi thế về truyền thống văn hóa đặc sắc, các dân tộc Tây Bắc đã “biến di sản thành tài sản”, đã biết khai thác và phát huy bản sắc văn hóa riêng để phát triển du lịch như Dân tộc Dao Đỏ (xã Tả Phìn, huyện Sa Pa) đã biết khai thác vốn tri thức dân gian trong việc chữa bệnh và đã phát triển thành thương hiệu thuốc lá tắm của dân tộc Dao Đỏ - Tả Phìn; dân tộc Mông, Dao khai thác văn hóa truyền thống thêu trang trí trên trang phục của mình tạo thành sản phẩm thủ công thêu tay rất độc đáo; các điểm du lịch cộng đồng ở Lào Cai còn đưa vào khai thác các sản phẩm du lịch cộng đồng với tên gọi "Một ngày làm cô dâu người Mông", "Một ngày làm nông dân người Dao", thi nấu rượu, thi dệt thổ cẩm với du khách... Còn đối với ở Mộc Châu, Sơn La cùng với các món ăn đậm đà bản sắc dân tộc, những lễ hội truyền thống của người Mông, người Mường, người Thái cũng được tổ chức để thu hút du khách như: lễ hội Hết Chá, Cầu Mưa, lễ hội mừng cơm được tổ chức vào tháng 3; ngày hội hái quả tổ chức vào tháng 5... còn phát triển các làng nghề vừa sản xuất vừa phục vụ khách du lịch như: dệt thổ cẩm của người Thái tại các bản Mển, bản Him Lam 2, bản Co Mỵ, bản Che Căn; dệt thổ cẩm của người Lào ở xã Núa Ngam và xã Mường Luân (huyện Điện Biên); làm bánh khẩu Xén ở thị xã Mường Lay; nghề thêu ren thổ cẩm ở bản Tà Là Cáo (xã Sính Phình, huyện Tủa Chùa); mây tre đan tại xã Nà Tấu (huyện Điện Biên);.... Vùng đất cổ Mường Bi - Tân Lạc còn lưu giữ được những giá trị truyền thống như: mo Mường, chiêng Mường, hát thường đang, bộ mẹng, hát ví.... Nhiều điểm DLCĐ Tây Bắc đã được vinh danh như: Khu du lịch bản Lác (Mai Châu) và khu du lịch Đá Bia của huyện Đà Bắc đã được trao giải “Những điểm du lịch cộng đồng có chất lượng và đạt tiêu chuẩn môi trường xanh” của ASEAN; bản Sin Súi Hồ (Lai Châu) được vinh danh là “Làng du lịch cộng đồng tiêu biểu Việt Nam”...

Phát triển du lịch cộng đồng đã tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho người dân tại chỗ, giúp xóa đói, giảm nghèo, đồng thời đóng góp vào tăng trưởng, phát triển kinh tế, xã hội địa phương và của vùng Tây Bắc. Tham gia kinh doanh DLCĐ, đồng bào các dân tộc tại địa điểm DLCĐ được tạo thêm nhiều sinh kế như: cung cấp điểm lưu trú, bán các mặt hàng nông sản, đồ thủ công mỹ nghệ truyền thống, làm hướng dẫn viên du lịch cho du khách, cho thuê trang phục truyền thống của dân tộc... đồng bào dân tộc thiểu số tại nhiều điểm DLCĐ, đã chuyển từ làm nương, rẫy, trồng lúa, đi rừng... sang làm du lịch. Người dân có thu nhập ổn định hơn, cuộc sống bớt phần vất vả, diện mạo thôn/bản cũng có nhiều thay đổi, ngày càng khang trang, đẹp đẽ hơn. Theo tổng kết của các địa phương có hoạt động du lịch cộng đồng, các điểm du lịch cộng đồng có tỷ lệ hộ nghèo thấp hơn nhiều so với các địa bàn khác. Các điểm du lịch cộng đồng ở Sa Pa (Lào Cai) có tốc độ xóa đói, giảm nghèo nhanh gấp 3 lần so với các thôn, bản không có du lịch. Số hộ nghèo ở huyện Mai Châu (Hòa Bình) chiếm 25%, trong khi ở các điểm du lịch cộng đồng, số hộ nghèo chỉ chiếm từ 8 - 11% (số liệu năm 2012)[8]. Bên cạnh đó, các mô hình du lịch cộng đồng phát triển dựa trên bản sắc văn hóa tộc người ở Tây Bắc còn góp phần đắc lực trong việc bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống của các tộc người, thúc đẩy hoàn thành tiêu chí văn hóa trong xây dựng nông thôn mới tại các địa phương.

Bên cạnh kết quả đã đạt được, phát triển DLCĐ vùng Tây Bắc cũng còn một số hạn chế nhất định: hoạt động DLCĐ ở các địa phương trong vùng Tây Bắc còn ở quy mô nhỏ lẻ, manh mún, chưa có nhiều sự liên kết địa phương, vùng trong phát triển du lịch do chưa có sự liên kết chặt chẽ giữa Nhà nước - doanh nghiệp và người dân. Các sản phẩm DLCĐ vẫn còn đơn điệu, chưa thật sự có chiều sâu, chưa chuyên nghiệp, có sự trùng lặp giữa các điểm du lịch, một số sản phẩm trùng lặp như là, hiện nay hai tỉnh Điện Biên và Sơn La đều tổ chức lễ hội hoa ban vào tháng 3; đến các bản DLCĐ nào của người Thái ở Điện Biên, Sơn La hay Yên Bái... thì cũng đều tổ chức các hình thức như ngủ nhà sàn, ăn cơm lam, xem múa xòe... Thị trường đồ lưu niệm chưa phong phú, đa dạng, thiếu bản sắc, hầu hết các điểm du lịch, đồ lưu niệm thường là váy áo thổ cẩm, thuốc nam, nông sản... tương tự nhau, thiếu những sản phẩm đặc trưng của từng địa phương. Mà hầu hết các sản phẩm ấy thường là nhập từ bên Trung Quốc chứ không phải sản phẩm do chính người dân bản địa làm ra. Công tác quảng bá du lịch, xúc tiến đầu tư vào phát triển DLCĐ còn hạn chế. Công tác nghiên cứu thị trường, thị hiếu của du khách để xây dựng các điểm, bản DLCĐ chưa được đánh giá đúng mức. Hệ thống giao thông chưa đồng bộ, các tuyến đường kết nối các khu, điểm du lịch còn khó khăn, vất vả và tốn nhiều thời gian. Chất lượng nguồn nhân lực du lịch còn ở trình độ thấp. Công tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này còn nhiều bất cập, nhiều nơi để xảy ra tình trạng phát triển DLCĐ xâm hại đến cảnh quan thiên nhiên, tài nguyên, môi trường, chạy theo thị hiếu mà làm phai mờ bản sắc văn hóa truyền thống...

3. Một số giải pháp thúc đẩy phát triển du lịch cộng đồng trên cơ sở văn hóa tộc người ở Tây Bắc trong giai đoạn tới

Để phát huy lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên văn hóa, thúc đẩy phát triển DLCĐ, tạo sinh kế bền vững cho người dân địa phương, các tỉnh Tây Bắc cần thực hiện một số giải pháp sau:

Thứ nhất, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Bắc về lợi ích to lớn của phát triển DLCĐ trong tạo việc làm, nâng cao thu nhập, xóa đói, giảm nghèo cho đồng bào và phát triển kinh tế địa phương. Từ đó, động viên, khuyến khích đồng bào đổi mới tư duy phát triển kinh tế, mạnh dạn đầu tư, chuyển đổi nghề nghiệp sang làm DLCĐ. Đồng thời, tuyên truyền giáo dục nâng cao ý thức bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, cảnh quan, môi trường sinh thái và giữ gìn, bảo tồn bản sắc văn hóa tộc người, không ngừng nỗ lực sáng tạo để làm giàu thêm “vốn văn hóa” của dân tộc mình, từ đó thúc đẩy phát triển du lịch, tạo sinh kế bền vững cho cộng đồng.

Thứ hai, tăng cường quản lý nhà nước đối với phát triển DLCĐ. Phát huy vai trò trung gian của Nhà nước để tăng cường hơn nữa mối liên kết giữa Doanh nghiệp – Nhà nước – Người dân trong phát triển DLCĐ. Nhà nước cần có cơ chế, chính sách hỗ trợ, khuyến khích thu hút các doanh nghiệp lữ hành tham gia đầu tư vào phát triển DLCĐ ở Tây Bắc. Nâng cao chất lượng quy hoạch phát triển du lịch của Vùng đảm bảo phát triển hài hòa giữa du lịch với phát triển các lĩnh vực khác. Nâng cao chất lượng công tác quản lý hành chính nhà nước đối với DLCĐ, đảm bảo phát triển theo đúng quy hoạch, trật tự, kỷ cương, cùng với cộng đồng địa phương xây dựng các điểm, bản DLCĐ văn minh, chuyên nghiệp, thân thiện, hấp dẫn với du khách.

Thứ ba, tập trung nghiên cứu, phát triển các sản phẩm du lịch gắn với bản sắc văn hóa tộc người và tính đặc thù của từng địa phương để thu hút du khách. Để tạo ra các sản phẩm du lịch mang bản sắc văn hóa riêng của từng tộc người và đặc trưng riêng của từng địa phương thì cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu về bản sắc văn hóa các dân tộc như: trang phục, lễ hội, kiến trúc, ẩm thực, phong tục, tập quán... Bên cạnh đó, cần xây dựng quy hoạch hợp lý các điểm DLCĐ gắn với văn hóa của các dân tộc, đặc trưng của từng địa phương; có bản sắc văn hóa đặc sắc, phong cảnh thiên nhiên mang sắc thái riêng; chú trọng liên kết giữa các tiểu vùng, với các tỉnh khác và toàn vùng. Mỗi tỉnh xác định chọn từ 1 - 3 điểm đến đặc trưng, là cốt lõi dựa vào tài nguyên đặc sắc nhất của mình để tạo điểm nhấn thu hút du khách.

Thứ tư, đầu tư xây dựng, hoàn thiện cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển DLCĐ. Tập trung đầu tư xây dựng hệ thống đường giao thông kết nối từ trung tâm đến các điểm DLCĐ, kết nối các điểm du lịch ở địa phương với nhau và với bên ngoài. Đầu tư, hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ hoạt động du lịch đảm bảo đồng bộ, tiện ích nhưng không phá vỡ không gian và bản sắc văn hóa của cộng đồng dân tộc bản địa.

Thứ năm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ DLCĐ Tây Bắc. Đây là một trong những nhân tố quyết định hiệu quả của quá trình phát triển du lịch. Chính quyền địa phương phải thường xuyên tập huấn, nâng cao các kỹ năng giao tiếp, ứng xử xã hội và các nghiệp vụ du lịch như là: hướng dẫn viên, thuyết minh viên, nhân viên phục vụ nhà hàng, homestay, nhân viên bán hàng; nâng cao trình độ ngoại ngữ, tin học... Tổ chức các buổi tham quan, học tập kinh nghiệm của đồng bào dân tộc thiểu số ở địa điểm DLCĐ thành công trong và ngoài địa phương. Việc nâng cao trình độ nguồn nhân lực DLCĐ phải đảm bảo người dân có đủ kiến thức kỹ năng làm du lịch mà không thương mại hóa quá, đánh mất đi tính thuần khiết của văn hóa vùng cao.

Thứ sáu, đẩy mạnh công tác xúc tiến, quảng bá, phát triển sản phẩm du lịch vùng Tây Bắc. Tăng cường, quảng bá giới thiệu địa điểm, sản phẩm DLCĐ thông qua các hội chợ du lịch lớn ở trong và ngoài nước, giới thiệu qua báo chí, các phương tiện truyền thông và mạng xã hội; tích cực tổ chức đón các đoàn đến khảo sát, xây dựng sản phẩm và quảng bá hình ảnh Tây Bắc đến với du khách trong nước và quốc tế; xây dựng bản đồ giới thiệu về các địa điểm DLCĐ gắn với truyền thống văn hóa của từng tộc người, từng địa phương trên toàn Vùng.

Kết luận

Du lịch cộng đồng là loại hình du lịch dựa trên những lợi thế về cảnh quan thiên nhiên và bản sắc văn hóa truyền thống đặc sắc, do chính cộng đồng dân cư, địa phương trực tiếp tham gia vào tổ chức khai thác, xây dựng các sản phẩm du lịch, vận hành, quản lý và hưởng lợi từ hoạt động du lịch trên cơ sở có sự hỗ trợ và hợp tác với các bên liên quan. Tiềm năng văn hóa tộc người trong phát triển du lịch cộng đồng vùng Tây Bắc là rất lớn. Trên cơ sở đánh giá thực trạng phát triển du lịch cộng đồng trên cơ sở văn hóa tộc người tạo sinh kế bền vững vùng Tây Bắc, bài viết đề xuất các giải pháp để các tỉnh Tây Bắc phát huy lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên văn hóa, thúc đẩy phát triển DLCĐ, tạo sinh kế bền vững cho người dân địa phương trong giai đoạn tới.

Tài liệu tham khảo:

[1] Vũ Trường Giang (2018), Di cư xuyên biên giới của các tộc người thiểu số ở vùng Tây Bắc Việt Nam, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội.

[2] Nguyễn Quang Hồng, Nguyễn Văn Tặng (2021), Chính sách đào tạo nguồn nhân lực dân tộc thiểu số tỉnh Tây Bắc - Thực trạng và khuyến nghị, Tạp chí Giáo dục lý luận, số 332.

[3] Nguyễn Công Thảo, Nguyễn Thị Thanh Bình(2019), Du lịch cộng đồng trên thế giới: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam.

[4] Trần Thanh Tùng, Tạ Thị Đoàn (2021), Phát triển du lịch cộng đồng nhằm tạo sinh kế bền vững ở tỉnh Hòa Bình, https://kinhtevadubao.vn

[5] Quyết định số 1877/QĐ-BVHTTDL ngày 08/06/2015 của Bộ văn hóa thể thao và du lịch Về việc công bố danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

[6] Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Điện Biên (2021), Du lịch cộng đồng - Hướng đi bền vững cho du lịch Điện Biên, https://bvhttdl.gov.vn

[7] Trần Hữu Sơn, ThS. Trần Thùy Dương (2015), Phát triển du lịch cộng đồng vùng Tây Bắc, http://tapchicongsan.org.vn.

[8] Thông tấn xã Việt Nam (2021), 14 Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại tại Việt Nam, https://hdll.vn

[9] Website thông tin đối ngoại tỉnh Lào Cai, Du lịch cộng đồng cần hướng đi bền vững, http://qlqh.laocai.gov.vn

Đọc thêm

Giải pháp thực hiện Cam kết của Việt Nam về "Net zero" vào năm 2050

Tác giả: Phạm Tú Tài

(GDLL) - Tại Hội nghị các Bên tham gia Công ước của Liên Hợp Quốc về Biến đổi khí hậu lần thứ 26 (COP 26), Việt Nam đã ký cam kết đạt mức phát thải ròng khí nhà kính bằng không vào năm 2050 (Net Zero). Bài viết tập trung phân tích những tác động của phát thải khí nhà kính, dẫn đến biến đổi khí hậu toàn cầu; nỗ lực của Việt Nam trong giảm phát thải khí nhà kính và đề xuất một số giải pháp Việt Nam cần thực hiện trong lộ trình "Net Zero" vào năm 2050.

Một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu Chính phủ số ở Việt Nam hiện nay

Tác giả: Vũ Thị Hoài Phương

(GDLL) - Trong quá trình xây dựng Chính phủ số ở Việt Nam, đội ngũ cán bộ, công chức đóng vai trò hết sức quan trọng. Thời gian qua, đội ngũ cán bộ, công chức đã nỗ lực hết mình để thực hiện chuyển đổi số, tuy nhiên vẫn còn một số tồn tại. Bài viết nghiên cứu về thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, góp phần xây dựng Chính phủ số ở Việt Nam hiện nay.

Quá trình phát triển nhận thức của Đảng về đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Tác giả: Lục Việt Dũng

(GDLL) - Bài viết khái quát sự phát triển nhận thức của Đảng về đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; nhấn mạnh những nội dung mới tại Nghị quyết số 27-NQTW; từ đó đề xuất một số giải pháp bảo đảm các đặc trưng này trong quá trình xây dựng, hoàn thiện mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.

Nguyên tắc và nội dung đổi mới phương pháp định hướng dư luận xã hội ở nước ta hiện nay

Tác giả: ThS Lưu Thị Thu Phương

(LLCT) - Nghiên cứu, nắm bắt, định hướng dư luận xã hội là một hoạt động quan trọng trong lãnh đạo, quản lý xã hội, do đó cần không ngừng được đổi mới công tác này để giúp cấp ủy, chính quyền phát hiện những điểm nóng về tư tưởng, kịp thời giải tỏa xung đột xã hội tiềm tàng. Bài viết tập trung làm rõ các phương pháp định hướng dư luận xã hội đang được sử dụng, nguyên tắc và nội dung đổi mới phương pháp định hướng dư luận xã hội ở Việt Nam hiện nay.

Từ tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi đến tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh

Tác giả: ThS. Cao Phan Giang

(GDLL) - Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh là những danh nhân tiêu biểu có nhiều đóng góp cho dòng tư tưởng về dân ở Việt Nam. Tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi hội tụ những giá trị vượt trội của thời đại phong kiến với và nhiều quan điểm tiến bộ về dân. Tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh là kết tinh của tư tưởng thân dân truyền thống cùng những giá trị tiến bộ của nhân loại trong ý thức hệ của giai cấp công nhân. Sự giống và khác nhau về hoàn cảnh lịch sử, ý thức hệ và bài học dựng nước, giữ nước và phát triển đất nước của hai tác giả cho thấy sự vận động và phát triển liên tục của dòng tư tưởng về dân Việt Nam.