Thứ Ba, ngày 30/05/2023, 22:06

Quan điểm của Đảng về lợi ích quốc gia - dân tộc ở Việt Nam hiện nay

NGUYỄN GIA HÙNG - LÊ CÔNG KHỞI
Học viện Chính trị khu vực I - Trường Chính trị Nguyễn Văn Cừ tỉnh Bắc Ninh

(GDLL) - Bảo đảm lợi ích dân tộc có vai trò hết sức quan trọng trong bảo đảm sự ổn định, hòa bình và phát triển bền vững của các quốc gia, dân tộc trên toàn cầu. Bài viết đi sâu vào luận giải quan điểm của Đảng về lợi ích quốc gia - dân tộc quan hệ giữa Việt Nam với các quốc gia dân tộc khác trên thế giới nói chung, giữa các tộc người trong nội bộ quốc gia nói riêng, qua đó góp phần đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Đồng chí Nguyễn Phú Trọng - Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (Nguồn ảnh: http://tuyengiao.hagiang.gov.vn/)

Lợi ích dân tộc là một khái niệm đa diện, phức tạp, có thể được tiếp cận dưới góc độ là lợi ích dân tộc - quốc gia (nation-states) trong mối quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc trên trường quốc tế, hay lợi ích của dân tộc - tộc người (ethnic groups) trong mối quan hệ giữa các tộc người, giữa tộc người với dân tộc - quốc gia ở một quốc gia đa tộc người. Lợi ích dân tộc vừa mang tính lịch sử, vừa mang tính giai cấp, là yếu tố, là động lực thúc đẩy tư duy và hành động của các quốc gia, dân tộc trên thế giới.

Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, hòa bình, ổn định và hợp tác vẫn là xu hướng chủ đạo trong quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc. Thế giới dần trở nên đa cực, các quốc gia, dân tộc với những lợi ích đan xen, phụ thuộc lẫn nhau, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh; trong nội bộ các quốc gia đa tộc người, mỗi tộc người dần hài hòa về mặt lợi ích đảm bảo sự phát triển bền vững trong sự thống nhất với lợi ích của dân tộc - quốc gia. Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn xác định “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc” trong quan hệ giữa dân tộc Việt Nam với các quốc gia - dân tộc khác trên thế giới và trong giải quyết vấn đề quan hệ dân tộc trong nước phù hợp với luật pháp quốc tế, với Hiến pháp và pháp luật Việt Nam.

Nội dung

Một là, bảo đảm lợi ích quốc gia dân tộc trong mối quan hệ với quốc gia dân tộc khác

Mối quan hệ của Việt Nam đã được mở rộng và đi vào chiều sâu với nhiều đối tác, trong đó, có tất cả các đối tác quan trọng (Nguồn ảnh: https://baotintuc.vn/)

Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ khi mới ra đời tới nay, trong quan hệ với các quốc gia - dân tộc khác luôn thực hiện nhất quán nguyên tắc “đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết, trước hết” trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của các quốc gia - dân tộc khác, tôn trọng luật pháp quốc tế và đề cao vai trò của các tổ chức quốc tế với trung tâm là tổ chức Liên Hợp Quốc (UN). Nguyên tắc trên được thể hiện trước hết trong quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẵn sàng đặt mọi quan hệ thân thiện hợp tác với bất cứ một nước nào trên nguyên tắc: tôn trọng sự hoàn chỉnh về chủ quyền và lãnh thổ của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp nội trị của nhau, bình đẳng cùng có lợi, và chung sống hoà bình”[8, tr.12]. Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các quốc gia dân tộc trên thế giới đều theo đuổi lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc mình, nhưng không làm tổn hại đến lợi ích của quốc gia - dân tộc khác, trong quan hệ giữa các quốc gia dân tộc cần đảm bảo sự bình đẳng trong quan hệ, đồng thời tôn trọng luật phát quốc tế và vai trò của tổ chức Liên Hợp Quốc. Trong tác phẩm “Lời kêu gọi Liên Hợp Quốc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ: “Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực;.... Nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên Hợp Quốc”[7, tr.523].

Quan điểm trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quan hệ giữa Việt Nam với các quốc gia - dân tộc khác trên toàn cầu đã được Đảng và Nhà nước Việt Nam quán triệt và đã trở thành nguyên tắc nhất quán trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ, đặc biệt từ thời kỳ Đổi mới (1986) đến nay. Văn kiện Đại hội VI xác định “...Đảng ta tiếp tục giương cao ngọn cờ hòa bình, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản, giữ vững độc lập tự chủ, tăng cường hợp tác quốc tế, ra sức làm tròn nhiệm vụ dân tộc và làm tốt nghĩa vụ quốc tế đối với nhân dân thế giới”[2, tr.109]. Qua luận điểm trên cho thấy Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn sẵn sàng và chủ động thiết lập mối quan hệ với các quốc gia - dân tộc khác và cam kết thực hiện vai trò, trách nhiệm của mình khi tham gia vào các quan hệ quốc tế vì hòa bình thế giới, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Chủ trương, quan điểm trên của Đảng và Nhà nước Việt Nam tiếp tục được khẳng định và bổ sung qua các kỳ đại hội. Trong quá trình hội nhập quốc tế, Đảng và Nhà nước Việt Nam xác định “Tham gia các cơ chế hợp tác chính trị, an ninh, kinh tế song phương và đa phương vì lợi ích quốc gia trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên Hợp Quốc”[4, tr.46]. Trong khi giữa các quốc gia - dân tộc trên toàn cầu có sự khác biệt về chính trị, văn hóa, xã hội, ngôn ngữ, tôn giáo, trình độ phát triển và theo đuổi những lợi ích khác nhau thì luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên Hợp Quốc là cơ sở để đảm bảo sự bình đẳng và điều hòa lợi ích giữa các quốc gia - dân tộc trong mối quan hệ với các quốc gia - dân tộc khác. Đồng thời hệ thống các tổ chức quốc tế được thành lập và hoạt động như Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), v.v., với trung tâm là tổ chức Liên Hợp Quốc giúp điều hòa lợi ích giữa các quốc gia - dân tộc trên cơ sở luật pháp quốc tế và sự đồng thuận. Ngoài ra, quá trình toàn cầu hóa, đa phương hóa còn tạo điều kiện cho sự ra đời của các tổ chức khu vực, liên khu vực cũng giúp điều hòa lợi ích của các quốc gia - dân tộc trong khu vực và giữa các khu vực trên toàn cầu.

Chủ trương, quan điểm trên của Đảng và Nhà nước Việt Nam tiếp tục được cụ thể hóa trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII khi nhấn mạnh: “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi...”[5, tr.34]. Đặc biệt, trong bối cảnh thế giới hiện nay trật tự thế giới đang có những diễn biến mới, có sự đan xen giữa các nhân tố cũ - mới; luật pháp quốc tế đang đứng trước thách thức trước sự trở lại của chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, hẹp hòi ở nhiều khu vực trên thế giới. Do vậy, lợi ích quốc gia - dân tộc của các quốc gia - dân tộc đang phát triển chỉ có thể được bảo đảm trong một trật tự quốc tế dựa trên luật lệ quốc tế và đa phương hóa, đa dạng hóa. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, mọi quốc gia - dân tộc cho dù theo đuổi lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc mình, cũng cần phải tuân thủ các quy định quốc tế, chế định và nguyên tắc của các tổ chức quốc tế, đặc biệt là những điều ước quốc tế mà quốc gia - dân tộc đã gia nhập. Tôn trọng và bảo vệ luật pháp quốc tế cũng chính là nhằm bảo đảm cho lợi ích của quốc gia - dân tộc. Đối với Việt Nam, lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc sẽ tiếp tục được bảo đảm khi Việt Nam “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế...”[5, tr.35]; đồng thời, giữ vững “độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa”[5, tr.20]. Đặc biệt trong quan hệ với các quốc gia - dân tộc khác, Việt Nam xác định “Chủ động tham gia xây dựng các nguyên tắc, chuẩn mực trong các thể chế đa phương, khu vực và toàn cầu; xử lý đúng đắn, hiệu quả quan hệ với các nước láng giềng, các nước lớn, các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và các đối tác khác”[6, tr.69]. Trong những năm tới, Việt Nam tiếp tục kiên định trên con đường độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và chủ nghĩa xã hội trên cơ sở bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, đồng thời hài hòa và thúc đẩy lợi ích của các quốc gia - dân tộc khác trong khu vực cũng như trên toàn cầu, vì hòa bình, dân chủ, hợp tác phát triển và tiến bộ xã hội. Đây vừa là mục tiêu tiên quyết, vừa kim chỉ nam cho hành động để Việt Nam hiện thực hóa khát vọng phát triển nhanh và bền vững đất nước.

Hai là, bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc - hài hòa lợi ích giữa các dân tộc - tộc người ở Việt Nam

Đại đoàn kết toàn dân tộc - sức mạnh vô địch của dân tộc Việt Nam( Nguồn: https://tuyengiao.vn/)

Là một quốc gia - dân tộc đa tộc người, vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách của cách mạng Việt Nam. Mỗi thời kỳ cách mạng, đặc biệt từ thời kỳ Đổi mới (1986) tới nay, Đảng Cộng Sản Việt Nam đều có những quan điểm, chủ trương phù hợp với những yêu cầu, đòi hỏi của tình hình thực tiễn trong quan hệ dân tộc ở Việt Nam. Những quan điểm, chủ trương được thể hiện qua nhiều văn kiện quan trọng của Đảng, đặc biệt là Văn kiện qua các kỳ Đại hội. Đại hội lần thứ VI đánh dấu sự đổi mới của Đảng và Nhà nước Việt Nam trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có vấn đề về dân tộc và quan hệ dân tộc, Báo cáo chính trị của Đại hội xác định: “Trong việc phát triển kinh tế, xã hội ở những nơi có đông đồng bào các dân tộc thiểu số, cần thể hiện đầy đủ chính sách dân tộc, phát triển mối quan hệ tốt đẹp gắn bó giữa các dân tộc trên tinh thần đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ nhau cùng làm chủ tập thể”[2, tr.97]. Văn kiện Đại hội khẳng định các dân tộc Việt Nam, trong 54 dân tộc anh em, tất cả đều có quyền bình đẳng như nhau, không có sự phân biệt đối xử vì bất cứ lý do nào; bình đẳng giữa các dân tộc được bảo đảm không những trên phương diện sự ghi nhận và bảo vệ của Hiến pháp và pháp luật đối với quyền, mà còn trên phương diện hưởng thụ về vật chất và tinh thần hướng tới “phát triển mọi mặt của từng dân tộc đi liền với sự củng cố, phát triển của cộng đồng các dân tộc trên đất nước ta”[2, tr.98]. Các quan điểm, chủ trương trên của Đảng tiếp tục được Đại hội IX(2001) kế thừa và phát triển phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi mới của thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đặc biệt, tại Hội nghị Trung ương 7 khóa IX, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua Nghị quyết số 24- NQ/TW, ngày 12 tháng 03 năm 2003, về công tác dân tộc, khẳng định :“Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển”[3, tr.48]. Để đạt được những mục tiêu trên, trước hết các chính sách dân tộc cần tập trung vào phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống, khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng dân tộc thiểu số và miền núi, đi đôi với bảo vệ bền vững môi trường sinh thái.

Đại hội XII (2016) và Đại hội XIII (2021) của Đảng là những kỳ đại hội đề cập đến vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc một cách toàn diện nhất, bao quát trên tất cả các lĩnh vực, định hướng cho những chính sách về dân tộc của Nhà nước Việt Nam. Văn kiện của Đảng xác định: “Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách, bảo đảm các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển...”[5, tr.164]; đồng thời, cần “Huy động, phân bổ, sử dụng, quản lý hiệu quả các nguồn lực để đầu tư phát triển, tạo chuyển biến căn bản về kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số”[6, tr.170]. Như vậy, đối với vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc, quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam đã dần được hoàn thiện, thể hiện rõ. Trong giải quyết vấn đề lợi ích giữa các dân tộc, đặc biệt là đối với các dân tộc thiểu số, cần tính đến sự hài hòa về mặt lợi ích giữa các dân tộc. Hài hòa về lợi ích giữa các dân tộc sẽ tạo cơ sở để bảo đảm bình đẳng dân tộc và đoàn kết dân tộc. Mỗi dân tộc đều có sự khác biệt về địa bàn cư trú, tiếng nói, văn hóa, truyền thống, tập tục, dẫn đến có sự phát triển không đồng đều. Thực tiễn là trong những năm qua, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã không ngừng có những chính sách đặc biệt quan tâm đầu tư cho sự phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục cho các vùng dân tộc thiểu số, đặc biệt là vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Các chính sách dân tộc đã từng bước tiến tới xóa đói giảm nghèo bền vững, đảm bảo sự hưởng thụ ngày càng cao về vật chất và tinh thần cho đồng bào dân tộc thiểu số. Các dân tộc thiểu số được tạo điều kiện tham gia hệ thống chính trị, quản lý xã hội, quản lý nhà nước. Tại Quốc hội khóa XIV nhiệm kỳ 2016-2021, số lượng đại biểu người dân tộc thiểu số là 86 người, chiếm 17,3%; tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức dân tộc thiểu số ở các tỉnh, thành, thành phố trực thuộc trung ương là 14,53%[1, tr.39]. Quyền tiếp cận giáo dục của các dân tộc thiểu số được bảo đảm. Người dân tộc thiểu số được chăm sóc sức khỏe, đảm bảo an sinh xã hội, văn hóa truyền thống được bảo tồn và phát huy. Đến năm 2019, 99,5% các xã vùng dân tộc thiểu số đã có trạm y tế; 91,3% xã có trường học kiên cố, 100% trẻ em được đến trường; 97,2% thôn có điện lưới quốc gia[9, tr.14-15]. Các chính sách dân tộc hướng tới mục tiêu chung mà Đảng và Nhà nước Việt Nam đã kiên trì thực hiện là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, là điểm tương đồng, tôn trọng sự khác biệt giữa các dân tộc, vì lợi ích chung của quốc gia - dân tộc.

Ngoài ra, vấn đề giải quyết hài hòa lợi ích dân tộc người Việt Nam ở nước ngoài cũng luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm. Người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời của người Việt Nam, các dân tộc Việt Nam, nhận thức và hành động luôn vì lợi ích chung của quốc gia - dân tộc Việt Nam. Văn kiện Đại hội XIII xác định “Hỗ trợ để người Việt Nam ở nước ngoài có địa vị pháp lý vững chắc, phát triển kinh tế và đời sống, hòa nhập xã hội nước sở tại”, đồng thời “Tạo điều kiện để đồng bào giữ gìn tiếng Việt, bản sắc văn hóa dân tộc, nâng cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc”[6, tr.171]. Đây chính là cơ sở để giải quyết hài hòa lợi ích giữa các dân tộc nhằm bảo đảm và củng cố sự đoàn kết giữa các dân tộc, giữa đồng bào Việt Nam ở trong nước với đồng bào Việt Nam ở nước ngoài trong khối đại đoàn kết toàn dân.

Như vậy, bảo đảm lợi ích quốc gia dân tộc luôn là nguyên tắc nhất quán, xuyên suốt trong chủ trương, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ. Nguyên tắc này được thể hiện cụ thể, trước hết, trong quan hệ giữa quốc gia - dân tộc Việt Nam với các quốc gia dân tộc khác trên thế giới vì mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở tôn trọng và bảo đảm lợi ích các quốc gia - dân tộc khác, tôn trọng luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên Hợp Quốc, đấu tranh chống áp bức, bất công, chủ nghĩa dân tộc cường quyền, nước lớn. Bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc còn được thể hiện trong giải quyết mối quan hệ giữa các dân tộc trong nước. Việt Nam là một quốc gia đa tộc người; mỗi tộc người có sự khác biệt về địa bàn cư trú, văn hóa, tập quán, tiếng nói, tín ngưỡng, trình độ phát triển. Ở mỗi thời kỳ cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn có những chủ trương, quan điểm phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn trong bảo đảm sự hài hòa về lợi ích giữa các dân tộc - tộc người, tạo cơ sở vững chắc cho đoàn kết, bình đẳng, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển giữa các dân tộc - tộc người. Lợi ích quốc gia dân tộc phải được đặt lên trên hết; chỉ khi lợi ích quốc gia - dân tộc được bảo đảm thì lợi ích của các dân tộc - tộc người mới được thực hiện.

Kết luận

Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc là quan điểm xuyên suốt chi phối việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam từ thời kỳ Đổi mới đến nay. Những thành tựu trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội của quốc gia - dân tộc Việt Nam hiện nay đã thể hiện Đảng, Nhà nước đã đặt lợi ích của quốc gia - dân tộc lên trên hết, trước hết, cùng với tôn trọng lợi ích chính đáng của quốc gia - dân tộc khác là hoàn toàn đúng đắn.

Tài liệu tham khảo:

[1] Bộ Ngoại giao (2018), Báo cáo quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam theo Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) Chu kỳ III, Hà Nội.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 62, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[7] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[8] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[9] Trần Nam Tiến (2013), Lợi ích quốc gia trong chính sách đối ngoại của Việt Nam thời kỳ đổi mới, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 (71).

[10] Ủy ban Dân tộc và Tổng cục Thống kê (2020), Kết quả điều tra thu thập thông tin về thực trạng kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2019, Nxb. Thống kê, Hà Nội.


Đọc thêm

Phát huy “Hào khí” Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới

Tác giả: Nguyễn Văn Nghĩa

(GDLL) - Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chiến dịch Điện Biên Phủ (13-3 đến 7-5-1954) đã giành thắng lợi vang dội, giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của thực dân Pháp, góp phần đưa hội nghị Giơ-ne-vơ đến thành công; là sự phát triển đến đỉnh cao của nghệ thuật quân sự, nghệ thuật chiến dịch Việt Nam. Từ “hào khí” chiến thắng Điện Biên Phủ, bài viết gợi mở những nội dung phát huy "hào khí" đó vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.

Tính độc đáo của nền đối ngoại, ngoại giao mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”

Tác giả: Bùi Giang Nam

(GDLL) - Trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam, nền đối ngoại, ngoại giao (bao gồm đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại Nhân dân) luôn giữ một vai trò hết sức quan trọng. Trên cơ sở phân tích đường lối đối ngoại của Việt Nam thời kỳ đổi mới và những thành tựu đã đạt được, bài viết làm sáng tỏ tính độc đáo của nền ngoại giao Việt Nam hiện nay, đó là nền đối ngoại, ngoại giao mang đậm bản sắc “Cây tre Việt Nam”.

Thực hiện chủ trương của Đảng về khuyến khích, tạo điều kiện phát triển các công ty, tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh

Tác giả: ThS Lê Quốc

(LLCT) - Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng”(1), chủ trương khuyến khích, tạo điều kiện phát triển các công ty, các tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh. Bài viết làm rõ vai trò của doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự đổi mới trong nhận thức và thực tiễn phát triển doanh nghiệp tư nhân trong thời kỳ đổi mới. Từ đó, đề xuất giải pháp phát triển các công ty và tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có sức cạnh tranh cao trong những năm tiếp theo.

Nâng cao phúc lợi xã hội cho nhân dân theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 8 khóa XIII

Tác giả: TS. Đỗ Văn Quân - ThS. Nguyễn Trọng Tuân

(TG) - Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh, một trong những giải pháp để bảo đảm cho sự tiến bộ và công bằng xã hội trở thành hiện thực trên đất nước ta là thực hiện tốt phúc lợi xã hội.

Nâng cao khả năng thích ứng của nguồn nhân lực Việt Nam trước yêu cầu Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Tác giả: Nguyễn Mai Phương

(GDLL) - Thế giới đã và đang chứng kiến những thay đổi to lớn về mặt khoa học, công nghệ do cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại. Bài viết nghiên cứu về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những yêu cầu đặt ra đối với nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay; Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng thích ứng của nguồn nhân lực Việt Nam trước yêu cầu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.