Đặt vấn đề
Chủ nghĩa Mác - Lênin là một học thuyết khoa học, cách mạng và nhân văn. Những giá trị của
học thuyết này vẫn đang khẳng định sức sống trường tồn trong dòng chảy phát triển
của lịch sử loài người. Với học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, C. Mác và
Ph. Ăngghen xem xét sự phát triển xã hội loài người là một tiến trình lịch sử -
tự nhiên. Đồng thời, các ông chỉ rõ, mặc dù sự thay thế nhau của các hình thái
kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên, nhưng sự thay thế ấy bao
giờ cũng phải trải qua một thời kỳ quá độ nhất định. Bên cạnh đó, các nhà kinh
điển chủ nghĩa Mác – Lênin cũng dự báo khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(CNXH) bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa (TBCN) trong những điều kiện lịch sử cụ
thể.
Tuy nhiên ngay từ khi mới ra đời cho đến nay, chủ
nghĩa Mác – Lênin nói chung, CNXH khoa học nói riêng đã bị các thế lực thù địch
chống phá quyết liệt. Đặc biệt kể từ sự kiện mô hình CNXH ở Liên Xô và các nước
Đông Âu sụp đổ, các thế lực thù địch (họ) luôn tìm mọi cách xuyên tạc, công
kích và phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin, họ ra sức tập trung chứng minh cho
“tính lỗi thời của học thuyết Mác – Lênin” và sự xa lạ của học thuyết này đối với
Việt Nam; thậm chí có ý kiến lập luận cho rằng “Mô hình đổ, nghĩa là học thuyết
đổ. Thực chất chủ nghĩa Mác là một học thuyết hư vô”[6, tr.176]; và “Cách mạng Tháng Mười Nga
là sự đẻ non; là sai lầm của lịch sử, CNXH hiện thực là quái thai, là sự phát
triển ngoài nền văn minh nhân loại”[6, tr.176]. Bên cạnh đó họ xuyên tạc, phủ
nhận các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin và cho rằng “Hình thái kinh
tế - xã hội chỉ là một lý thuyết về chủ nghĩa xã hội không tưởng, không bao giờ
thực hiện được, sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở
Liên Xô và các nước Đông Âu là một tất yếu đã được dự báo từ trước”[5, tr.19];
và cũng theo họ “CNXH đã cáo chung, Đảng Cộng sản
đã hết vai trò lịch sử; rằng Việt Nam kiên định đi lên CNXH là sai lầm, là đi
vào vết xe đổ của Liên Xô và Đông Âu”[1, tr.48]. Họ cố tình xuyên tạc, quy chụp
“CNXH mà Mác nêu ra chỉ là một lý tưởng, một CNXH “không tưởng”, không bao giờ
thực hiện được”[1, tr.48].
Các quan điểm, ý kiến và cách tiếp cận trên là hoàn
toàn sai trái, mang tính quy chụp, ngụy biện, chủ quan, thậm chí là thù địch với
ý đồ phủ nhận nền tảng tư tưởng và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,
phủ nhận con đường đi lên CNXH của Việt Nam. Bằng luận chứng khoa học và từ thực
tiễn thế giới, trong nước cũng những thành công của cách mạng Việt Nam chúng ta
khẳng định rằng, dù các thế lực thù địch có đưa ra các luận điệu xuyên tạc với
âm mưu nham hiểm như thế nào đi nữa thì cũng không thể phủ nhận được học thuyết
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt
Nam và việc lựa chọn con đường đi lên CNXH là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và
xu thế phát triển của nhân loại.
Nội dung
Thứ nhất, việc lựa chọn
con đường đi lên CNXH ở Việt Nam dựa trên học thuyết Mác - Lênin về hình thái
kinh tế - xã hội và lý luận thời kỳ quá độ lên CNXH
Trong học thuyết
hình thái kinh tế - xã hội, C. Mác đã chỉ ra sự vận động phát triển của xã hội
từ thấp đến cao. C. Mác coi các phương thức sản xuất châu Á, cổ đại, phong kiến,
tư sản hiện đại là những thời đại tiến triển dần dần của các hình thái kinh tế
- xã hội. Khi nghiên cứu các quy luật của sự phát triển xã hội nói chung và chủ
nghĩa tư bản nói riêng, C. Mác đã đi đến kết luận khoa học rằng sẽ xuất hiện một
hình thái kinh tế - xã hội mới là hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa.
Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, các
nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học đã khẳng định rằng sự ra đời của CNTB
là một giai đoạn mới trong lịch sử phát triển của nhân loại, CNTB đã tạo ra bước
phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất: “Giai
cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra
những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả
các thế hệ trước kia gộp lại”[9, tr.603]. Nhưng, C.Mác và Ph. Ăngghen đã
chỉ ra rằng, trong xã hội đầy đối kháng giai cấp đó, con người càng chinh phục
tự nhiên, cải tạo tự nhiên bao nhiêu thì tình trạng người áp bức, bóc lột người
càng được mở rộng bấy nhiêu. Lực lượng sản xuất càng được cơ khí hóa, hiện đại
hóa, càng mang tính xã hội hóa cao bao nhiêu thì quan hệ sản xuất TBCN dựa trên
chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN ngày càng trở thành lực cản đối với sự phát triển
của lực lượng sản xuất. Mâu thuẫn giữa trình độ xã hội hóa của lực lượng sản xuất
với chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN đối với tư liệu sản xuất trở thành mâu thuẫn
kinh tế cơ bản của CNTB.
Sự phát triển mạnh mẽ của đại công nghiệp cơ khí và
cùng với nó, sự trưởng thành cả về chất và lượng của giai cấp công nhân – vốn
là sản phẩm của chính chủ nghĩa tư bản – đã tạo ra tiền đề kinh tế và xã hội để
tiến tới thủ tiêu CNTB. C. Mác và Ph. Ăngghen cho rằng “giai cấp tư sản không
những đã rèn những vũ khí sẽ giết mình; nó còn tạo ra những người sử dụng vũ
khí ấy chống lại nó, đó là những công nhân hiện đại, những người vô sản”[9, tr.605], “tất cả
các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công
nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”[9, tr.610]. Và các
ông khẳng định “làm tròn sự nghiệp giải phóng thế giới ấy, đó là sứ mệnh lịch sử
của giai cấp vô sản hiện đại”[10,
tr.333].
Nếu C. Mác và Ph. Ăngghen đã luận chứng sâu sắc về
tính tất yếu phải diệt vong của CNTB và cũng một tất yếu như thế đối với sự ra
đời, sự thắng lợi của CNXH, chủ nghĩa cộng sản; đã phát hiện ra vai trò lịch sử
thế giới của giai cấp vô sản cách mạng, dự báo về cách mạng vô sản nổ ra ở những
nước TBCN đã phát triển ở trình độ cao, thì V.I.Lênin lại nhìn thấy những cái mới
xuất hiện ở giai đoạn mình, đó là tính chất phát triển không đồng đều của CNTB
và khả năng chín muồi một tình thế cách mạng ở những mắt xích xung yếu nhất. Vì
thế theo V.I.Lênin, cách mạng vô sản có thể nổ
ra ở một số nước, thậm chí ở một nước, ở những nước mà CNTB mới chỉ phát triển
trung bình, mới hình thành các quan hệ TBCN mà cũng có thể ở những nước chậm
phát triển, còn lạc hậu, còn tồn tại các quan hệ tiền tư bản. Chính tư tưởng
này của V.I.Lênin đặt cơ sở lý luận khoa học về quá độ tới CNXH bỏ qua giai đoạn
phát triển TBCN ở những nước lạc hậu.
Đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ lên CNXH là thời
kỳ cải tạo cách mạng sâu sắc, triệt để xã hội TBCN trên tất cả các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, xây dựng từng bước cơ sở vật chất – kỹ thuật
và đời sống tinh thần của CNXH. Đó là thời kỳ lâu dài, gian khổ, bắt đầu từ khi
giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền đến khi xây dựng
thành công CNXH.
Thứ
hai, việc lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội xuất phát theo tư tưởng Hồ
Chí Minh về CNXH, con đường đi lên CNXH và từ chính yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn
- lịch sử dân tộc Việt Nam
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam nổi lên hai mâu thuẫn cơ bản:
mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp; và xuất hiện nhu cầu phải tìm ra con
đường để giải quyết triệt để hai mâu thuẫn đó. Tại thời điểm này, xã hội Việt
Nam đã trải qua những cuộc thử nghiệm lịch sử để lựa chọn con đường đi cho dân
tộc. Tuy nhiên, các phong trào yêu nước từ lập trường phong kiến, đến lập trường
dân chủ tư sản đều không thành công, xã hội rơi vào bế tắc, khủng hoảng về đường
lối lãnh đạo.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm tiếp thu tinh thần yêu
nước nồng nàn, lòng thương dân sâu sắc và ý chí đấu tranh kiên cường, bất khuất
của ông cha. Người rất khâm phục tinh thần yêu nước của các cụ Phan Bội
Châu, Phan Châu Trinh, Hoàng Hoa Thám... nhưng Người cũng sớm nhận ra hạn chế ở
con đường cứu nước của các Cụ. Năm 1917 Cách mạng Tháng Mười Nga nổ ra và thành
công, đưa CNXH từ lý luận trở thành hiện thực. Đánh giá ảnh hưởng của Cách mạng
Tháng Mười tới cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ
Chí Minh nhấn mạnh: “Trong thế giới bây giờ chỉ có
cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được
hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối
như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam”[11, tr.304], và Người khẳng định cách mạng
Việt Nam muốn thắng lợi phải đi theo con đường của Cách Mạng Tháng Mười Nga.
Năm 1920, Người tìm thấy trong Luận cương của
V.I.Lênin ánh sáng chân lý của thời đại, tìm thấy con đường giải phóng dân
tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Con đường cứu nước, giải
phóng dân tộc, đó là: giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản,
độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Và Người đã khẳng định: “Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”[13, tr.30]. Cống hiến đặc sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ ở
chỗ khẳng định tính tất yếu của CNXH với tư cách là một chủ nghĩa nhân
văn, phát triển, tiến bộ mà còn định hướng giải đáp câu hỏi "chủ nghĩa xã
hội là gì?", để đi đến khẳng định đặc trưng bản chất CNXH ở Việt Nam. Theo Người, CNXH là làm sao cho dân giàu, nước mạnh;
đồng bào sung sướng, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng cao;
mọi người được ăn no, mặc ấm, tự do; một chế độ xã hội không có người bóc lột người,
một xã hội bình đẳng, ai cũng phải lao động và có quyền lao động (trừ những người
già cả, đau ốm, trẻ con...); một chế độ xã hội do nhân dân lao động làm chủ, địa
vị cao nhất là dân;...
Đặc biệt, một trong những vấn đề
lý luận cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh là giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa
độc lập dân tộc và CNXH. Theo Người, với xã hội Việt Nam là một nước thuộc địa
nửa phong kiến, giành độc lập dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, là điều kiện tiên
quyết để phát triển đất nước. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh
phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì, tức là độc lập dân tộc phải
đi tới CNXH. Chủ nghĩa xã hội là thước đo giá trị của độc lập dân tộc. Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và CNXH là
sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh và cách mạng Việt Nam từ khi
có Ðảng. Đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa Mác – Lênin, dưới sự
lãnh đạo của Đảng và của chủ tịch Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam đã tìm ra con
đường phát triển đặc thù – đó là con đường quá độ bỏ qua chế độ TBCN, đi lên
CNXH từ một nước thuộc địa nửa phong kiến. Cách thức phát triển này đã cho phép
giải quyết một cách triệt để mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp của xã hội
Việt Nam trong đầu thế kỷ XX. Điều này cho thấy, con đường độc lập dân tộc gắn
liền với CNXH phản ánh sự lựa chọn khách quan của chính thực tiễn – lịch sử dân
tộc mang đậm tính đặc thù của Việt Nam.
Thứ
ba, sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô không phải
là sự sụp đổ của Học thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học nói chung, mà chỉ là sự sụp
đổ của một mô hình chủ nghĩa xã hội cứng nhắc, xơ cứng, quan liêu được nhân
danh là “mẫu mực”, “duy nhất đúng”
Trong quá trình hình thành và phát triển (1917
-1991), Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác đã đạt được những thành tựu
to lớn về nhiều mặt, đã từng là chỗ dựa cho phong trào cách mạng thế giới, chỗ
dựa cho việc đẩy lùi nguy cơ chiến tranh hạt nhân, góp phần quan trọng vào cuộc
đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Nhưng do nhận
thức cứng nhắc, dập khuôn mô hình phát triển, chậm khắc phục những hạn chế, yếu
kém trong mô hình chủ nghĩa xã hội, bên cạnh đó lại mắc phải những sai lầm về
đường lối cải tổ, sự “phản bội” của người đứng đầu, cộng với sự chống phá quyết
liệt của các thế lực đế quốc, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô đã bị
sụp đổ.
Sau
sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô, một số nước xã hội
chủ nghĩa (Trung Quốc, Việt Nam, Cu Ba, Lào) vẫn kiên định con đường đi lên
CNXH trên cơ sở vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, đổi mới, cải
cách để tìm kiếm những mô hình phát triển phù hợp với điều kiện của nước mình
và đã đạt được nhiều thành công to lớn. Điều này đã góp phần khẳng định sự sụp
đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô không phải là sự sụp đổ
của Học thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học, đây chỉ là bước lùi tạm thời trong tiến
trình phát triển của CNXH trên toàn thế giới. Các luận điệu cho rằng sự sụp đổ
của CNXH hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu là “cáo chung” của CNXH là những
luận điệu phiến diện, chủ quan, quy chụp. Tương lai của nhân loại vẫn là CNXH.
Thứ tư, chủ nghĩa tư bản
đã, đang có những điều chỉnh, song về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột
và bất công, chủ nghĩa tư bản không thể tự giải quyết được những mâu thuẫn vốn
có của nó
CNTB
trong quá trình tồn tại của mình, mặc dù trải qua nhiều cuộc khủng hoảng và suy
thoái, nhiều bước quanh co, phức tạp, gây ra nhiều tội ác cho loài người (chiến
tranh xâm lược, nạn khủng bố, phân biệt chủng tộc, ô nhiễm môi trường, cạn kiệt
tài nguyên…), song chính CNTB đã tạo ra những lực lượng sản xuất khổng lồ, hiện
đại, thúc đẩy nền văn minh nhân loại. Trong thời đại kinh tế tri thức và công
nghệ số như hiện nay, CNTB đang có những điều chỉnh về sở hữu, phân phối, quan
hệ chủ - thợ…và “Hiện tại, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, nhưng về
bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công. Những mâu thuẫn cơ bản
vốn có của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày
càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa,
chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khủng hoảng
kinh tế, chính trị, xã hội vẫn tiếp tục xảy ra. Chính sự vận động của những mâu
thuẫn nội tại đó và cuộc
đấu tranh của nhân dân lao động sẽ quyết định vận mệnh của chủ nghĩa tư bản”[2, tr.12]. Điều đó
cho thấy cách thức phát triển kiểu TBCN đang chứa đựng nhiều nguy cơ bất ổn, những
tiền đề, điều kiện cho sự phủ định CNTB đang ngày càng chín muồi trong lòng xã
hội tư bản, đồng thời cũng chỉ rõ “chỉ có giai cấp công nhân dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản mới giải quyết được triệt để tất cả những mâu thuẫn đó và mới xây
dựng được một xã hội mới nhân văn, tiến bộ, thực sự vì con người”[7, tr.92].
Thứ năm, thành công tiếp
nối thành công của cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo, đặc biệt những
thành tựu đã đạt được qua hơn 35 năm đổi mới đã khẳng định con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển
của thời đại
Từ
khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo, kiên định mục tiêu con đường
phát triển đã lựa chọn – CNXH. Khẳng định đây là sự lựa chọn đúng đắn được minh
chứng bằng những thắng lợi đạt được trong hơn 93 năm qua, đưa Việt Nam từ một
nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành quốc gia độc lập, tự do, phát triển và
với vị thế, uy tín quốc tế ngày càng cao. Thành công tiếp nối thành công. Thắng
lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân
tộc - kỷ nguyên độc lập, tự do, hạnh phúc và đi lên CNXH. Sau thắng lợi của
Cách mạng tháng Tám là thắng lợi của cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp
với một Điên Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”; tiếp đến là thắng
lợi trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ và kết thúc bằng đại thắng Mùa Xuân
năm 1975, đất nước thống nhất một nhà...
Đặc
biệt với bản lĩnh và trí tuệ, Đảng lãnh đạo cả nước tiến hành công cuộc đổi mới
bằng những bước đi, cách làm phù hợp, sáng tạo đã đem tới thành công trên mọi
lĩnh vực phát triển của đất nước:kinh tế vĩ mô luôn được giữ ổn định, lạm phát được kiểm
soát, tăng trưởng được duy trì ở mức khá cao; tiềm lực, quy mô và sức cạnh
tranh của nền kinh tế không ngừng được nâng lên; công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng
và xây dựng hệ thống chính trị được đặc biệt chú trọng, đạt nhiều kết quả tích
cực; chính trị - xã hội ổn định vững chắc có được sự tin tưởng, đồng lòng, ủng
hộ của nhân dân; quốc phòng, an ninh không ngừng được củng cố với tinh thần
kiên quyết, kiên trì đấu tranh giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ trên cở sở nguyên tắc, luật pháp quốc tế; quan hệ đối ngoại và hội
nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và hiệu quả; vị thế, uy tín của Việt Nam trên
trường quốc tế được nâng cao... Những thành quả đó cho phép chúng ta có quyền tự
hào nói rằng “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy
tín quốc tế như ngày nay”[4,
tr.25]. Việc Việt Nam nhanh chóng vượt qua đại dịch COVID-19, cả
nước sớm trở lại trạng thái hoạt động bình thường, an toàn lại thêm một minh chứng
để khẳng định tính ưu việt, nhân văn của chế độ xã hội mà Việt Nam đã, đang xây
dựng – CNXH.
Kết luận
Những
trình bày trên một lần nữa khẳng định rằng, dù các thế lực thù địch tìm mọi thủ
đoạn, biện pháp đưa ra các luận điệu chống phá, xuyên tạc, nhưng không thể phủ
nhận được con đường đi lên CNXH ở nước ta, vì sự lựa chọn con đường đi lên CNXH
của Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn, như Đảng ta đã khẳng định: “Theo quy luật
tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”[3, tr.69], và “Đi
lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng
Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh”[3, tr.70].
Tài
liệu tham khảo:
[1] Ban Tuyên giáo Trung
ương (2007), Phê phán, bác bỏ các quan điểm
sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[2] Đảng Cộng sản Việt
Nam (2011), Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011),
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[3] Đảng Cộng sản Việt
Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[4] Đảng Cộng sản Việt
Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[5] Vũ Văn Hiền (chủ
biên) (2020), Một số luận cứ phản bác các
quan điểm sai trái, thù địch, chống phá Đại hội XIII của Đảng tập I, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[6] Học viện Chính trị
Công an nhân dân (2017), Đấu tranh chống các
quan điểm, luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[7] Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh (2022), Sổ tay công tác
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái,
thù địch trong tình hình mới, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội.
[8] V.I. Lênin (2005), Toàn tập, tập 39, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
[9] C. Mác và
Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập
4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[10]
C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập,
tập 19, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
[11]
Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập
2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[12]
Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập
3, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[13]
Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập
12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[14]
Trần Dân Tiên (1976), Những mẩu chuyện về đời
hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội.