Đặt vấn đề
Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội bằng đường lối, chính sách; Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thượng tôn Hiến pháp, pháp luật, quản lý xã
hội bằng pháp luật. Nếu các quan điểm của Đảng không được thể chế hoá thành
pháp luật và được hiện thực hoá thông qua hành vi của các chủ thể trong xã hội
trong đó có đội ngũ cán bộ thì các quan điểm của Đảng sẽ không được thực hiện
một cách hiệu quả. Nghiên cứu để đưa ra các kiến nghị thể chế hoá quan điểm của
Đảng, trong đó có quan điểm về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo
vì lợi ích chung có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, đặc biệt là trong giai đoạn
hiện nay.
1. Quan điểm của Đảng về khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng
động, sáng tạo vì lợi ích chung
Trong quá trình lãnh đạo
cách mạng, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn khuyến khích, phát huy sự năng động,
sáng tạo của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Cán bộ là nhân tố
quyết định sự thành bại của cách mạng; công tác cán bộ là khâu "then
chốt" của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Đảng khẳng định
“Đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ là đầu tư cho phát triển lâu dài, bền vững”[2].
“Bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”[3, tr.100]. “Xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh,
tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển
của đất nước[3, tr. 118].
“Lấy nhân dân làm trung tâm”, “lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu
phấn đấu”[3, tr.28].
“Lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan
trọng để đánh giá chất lượng hoạt động của chính quyền”[3, tr.192]. Vì vậy, trong bối cảnh xã hội
vận động và phát triển không ngừng, để giải quyết những khó khăn, thách thức mà
thực tế đặt ra, tạo nên các đột phá để thúc
đẩy sự phát triển của đất nước, Đảng định hướng “có cơ chế lựa chọn, đào tạo,
thu hút, trọng dụng nhân tài, khuyến khích, bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám nói,
dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn
thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung”[3, tr.179], nhưng cũng cần hình thành cơ
chế để không thể, không dám, không cần và không muốn tham nhũng, tiêu cực[6]. Đây chính là
những định hướng lớn, có ý nghĩa chỉ đạo trong xây dựng và thực hiện cơ chế
khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung.
Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam phải “bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật. Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp
và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật”; “pháp luật trở thành
chuẩn mực ứng xử của mọi chủ thể trong xã hội”[6]. Vì vậy, cơ chế khuyến khích và bảo vệ
cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung phải được dựa trên cơ sở luật pháp,
đặt ra yêu cầu phải “kịp thời thể chế hoá, cụ thể hoá, triển khai đúng đắn,
hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng”[3, tr.180,181], trong đó có cơ chế khuyến
khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung. Điều đó cũng thể
hiện quan điểm vận hành thông suốt cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân
dân làm chủ tại Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 17/11/2022 Hội nghị lần thứ 6 Ban
Chấp hành Trung ương Đảng về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền
của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới.
Ngày 22
tháng 9 năm 2021, Bộ Chính trị đã ban hành kết luận chuyên sâu về chủ trương
khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung. Bộ Chính
trị kết luận “khơi dậy mạnh mẽ ý thức trách nhiệm, khát vọng cống
hiến, tinh thần đổi mới, hết lòng, hết sức vì nhân dân phục vụ của đội ngũ cán
bộ”; “Trong quá trình thực hiện chức
trách, nhiệm vụ được giao, xuất phát từ yêu cầu, đòi hỏi cấp thiết của thực
tiễn, khuyến khích cán bộ có tư duy sáng tạo, cách làm đột phá, tháo gỡ, giải
quyết những điểm nghẽn, nút thắt trong cơ chế, chính sách, tập trung vào những
vấn đề chưa được quy định hoặc đã có quy định nhưng không phù hợp với thực
tiễn, mang lại giá trị, hiệu quả thiết thực, tạo được chuyển biến mạnh mẽ, đóng
góp tích cực vào sự phát triển chung”. Đồng thời với việc khẳng định cần khuyến
khích, bảo vệ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung, Bộ Chính trị cũng thể hiện
rõ quan điểm “Đề xuất đổi mới, sáng tạo của cán bộ phải báo cáo với
người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền, cơ quan, đơn vị nơi công tác; được cơ quan
có thẩm quyền xem xét, quyết định cho thực hiện hoặc thực hiện thí điểm, bảo
đảm không trái với Hiến pháp và Điều lệ Đảng”, thường xuyên theo dõi, kiểm tra,
giám sát, xem xét, điều chỉnh, có quyết định phù hợp với tình hình thực tế, xử
lý nghiêm việc lợi dụng chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ để thực hiện
hoặc bao che hành vi vụ lợi, tham nhũng, tiêu cực, vi phạm kỷ luật của Đảng và
pháp luật của Nhà nước[4].
2. Sự cần thiết phải thể
chế hoá quan điểm của Đảng về
khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung
Thứ
nhất, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng. Điều 4, Hiến pháp năm 2013 khẳng định “Đảng
Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội
tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành
lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng
lãnh đạo Nhà nước và xã hội”[8].
Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội thông qua Cương
lĩnh, chiến lược, các định hướng và chủ trương. Đảng ban hành các Nghị quyết,
chỉ thị, quy định... thể hiện quan điểm, định hướng xây dựng Nhà nước và phát
triển xã hội. Vì vậy, việc thể chế hoá các quan điểm của Đảng nói chung và quan
điểm của Đảng về khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì
lợi ích chung là yêu cầu tất yếu, đã trở thành nguyên tắc hiến định. Nghị quyết
số 28-NQ/TW ngày 17/11/2022 tại Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khoá XIII về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối
với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới đã khẳng định “Nâng cao năng lực tổ
chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, nhất là thể chế hoá, cụ thể hoá
thành luật và các văn bản dưới luật”. Tuy nhiên, kể từ khi có Nghị quyết Đại
hội Đảng lần thứ XIII, Kết luận 14 của Bộ Chính trị tháng 9 năm 2021cho đến
nay, chưa có văn bản pháp luật nào thể chế hoá, quy định cụ thể, tập trung về
cơ chế khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích
chung.
Thứ
hai, giải quyết những thách thức về khả năng đáp ứng của luật pháp với sự phát
triển nhanh chóng của xã hội, đặc biệt là khoa học, công nghệ.
Pháp luật là hệ thống
các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung, pháp luật thể hiện tính phổ quát, đòi
hỏi vừa phải thể hiện được tính bao quát các tình huống trong xã hội, đáp ứng
yêu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội, thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ xã
hội. Vì vậy, quy trình ban hành pháp luật cần chặt chẽ, mọi chủ thể liên quan,
mọi khía cạnh liên quan đều phải được nghiên cứu, cân nhắc kỹ lưỡng, đồng thời
bảo đảm sự tham gia của Nhân dân với tư cách là chủ thể của quyền lực nhà nước,
sự tham vấn các chuyên gia nước ngoài. Điều đó có nghĩa là khó có thể có những
đạo luật vừa đáp ứng được những yêu cầu của xây dựng pháp luật nêu trên, vừa có
thể phản ứng tức thời với những vấn đề đang liên tục phát sinh, những vấn đề
thảm hoạ, dịch bệnh bất ngờ, nguy hiểm như COVID - 19 mà thế giới vừa trải qua
hay vấn đề công nghệ. Để giải quyết thách thức nêu trên, phương thức thử
nghiệm, thí điểm, cho phép triển khai ngay mà không cần chờ đợi trải qua các
bước ban hành văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh chính thức được coi là
phương thức phù hợp. Cơ chế này cũng tạo ra cơ sở thực tiễn cho việc ban hành
các quy định điều chỉnh chính thức sau này với phương châm “những vấn đề thực
tiễn đòi hỏi, đã rõ, được thực tiễn chứng minh là đúng, có sự thống nhất cao
thì kiên quyết thực hiện”[6].
Thứ ba, thực hiện hiệu
quả các quan điểm, đường lối của Đảng.
Pháp luật là hệ thống
quy tắc xử sự, các quy tắc ấy xác định giới hạn của hành vi con người, có tính
bắt buộc chung đối với mọi chủ thể trong xã hội. Vì vậy, thể chế hoá quan điểm
của Đảng về khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung
chính là việc biến những định hướng chung của Đảng thành những quy phạm cụ thể
được bảo đảm thực hiện bằng quyền lực nhà nước.
Nhà nước có thể dùng quyền lực của mình để triển khai rộng khắp những quan điểm
của Đảng đã được thể hiện ở các quy phạm pháp luật. Các chế tài mà Nhà nước có
thể áp dụng cho những hành vi vi phạm pháp luật có thể tước đi quyền sở hữu,
quyền tự do, thậm chí là quyền sống của con người, nó đủ sức răn đe và định
hướng hành vi con người một cách hiệu quả. Điều này không được thể hiện trong
việc áp dụng các hình thức kỷ luật của
Đảng. Việc thể chế hoá các quan điểm của Đảng thành pháp luật cũng là bảo đảm
thực thi Quy định số 37- QĐ/TW về những điều đảng viên không được làm, trong đó
có “làm những việc mà pháp luật không cho phép”[5].
Thứ tư, công khai, minh bạch nhằm kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
Việc thể chế hoá những
quan điểm chung mang tính định hướng của Đảng thành các quy phạm pháp luật
chính là quá trình cụ thể hoá, làm rõ các định hướng chung thành các tiêu
chuẩn, định mức, quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của từng chủ thể phù hợp với
điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Đây chính là quá trình minh bạch hoá, hình thành,
hoàn thiện cơ chế phòng ngừa chặt chẽ để không thể tham nhũng, tiêu cực. Việc
thể chế hoá quan điểm của Đảng thành luật pháp cũng chính là xác định một cách
rõ ràng sự phân công quyền lực của từng chủ thể, vạch rõ giới hạn của quyền lực
để các chủ thể tự kiểm soát quyền lực của mình và kiểm soát quyền lực của các
chủ thể khác một cách hợp pháp.
3. Một số khuyến nghị nhằm thể chế hoá quan điểm của Đảng về khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo
vì lợi ích chung
Một là, cần ban hành một đạo luật về khuyến
khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung. Theo Kết luận số
14, sự năng động, sáng tạo vì lợi ích chung được khuyến khích, bảo vệ khi tháo gỡ, giải quyết những điểm nghẽn, nút thắt trong
cơ chế, chính sách, tập trung vào những vấn đề chưa được quy định hoặc
đã có quy định nhưng không phù hợp với thực tiễn và bảo đảm không trái với Hiến
pháp và Điều lệ Đảng. Như vậy, đột phá, sáng tạo có thể vượt ra ngoài những quy
định của một đạo luật khi những quy định này không còn phù hợp với thực tiễn
(trừ đạo luật gốc là Hiến pháp). Vì vậy, xét về hiệu lực pháp lý, văn bản quy
phạm pháp luật quy định về việc khuyến khích, bảo vệ cán bộ dám đổi mới, sáng
tạo khác với quy định của một đạo luật nhất thiết phải là một đạo luật. Mặt
khác, trong quá trình sáng tạo, đổi mới vì lợi ích chung, rất có thể sẽ phải
hạn chế quyền của một số chủ thể. Trong khi đó, Điều 14, Hiến pháp 2013 quy
định “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của
luật”.
Hai là, cần thể chế hoá
để quy định rõ ràng cán bộ được nêu trong Kết luận 14 là đối tượng nào? Cán bộ
ở đây có tương đương với khái niệm cán bộ được quy định trong Luật cán bộ, công
chức năm 2008 (là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức
vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước,
tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trong biên chế và hưởng lương từ ngân
sách nhà nước; được bầu giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức
chính trị - xã hội). Công chức, viên chức có được áp dụng cơ chế này không?
Ngoài cán bộ, công chức, viên chức có thể có đối tượng nào khác được hưởng cơ
chế này? Theo chúng tôi nên quy định cán bộ được nêu trong Kết luận 14 bao gồm
cán bộ (theo Luật cán bộ, công chức), công chức, viên chức và người đại diện
theo pháp luật trong các doanh nghiệp nhà nước. Đây là những đối tượng hoạt
động nhân danh quyền lực công hoặc làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập
(viên chức) hoặc trong “các doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều
lệ, tổng số cổ phần có quyền biểu quyết”[9]. Vì vậy, hoạt động thực tiễn của họ có
ảnh hưởng không nhỏ tới lợi ích chung phù hợp với mục tiêu của sự năng động,
sáng tạo mà Kết luận 14 đã đưa ra.
Ba là, cần quy định rõ thế nào là năng
động, sáng tạo; thế nào là khuyến khích, bảo vệ; thế nào là vì lợi ích chung?
điều kiện để được bảo vệ, khuyến khích; thẩm quyền, quy trình, thủ tục, trình
tự “báo cáo với người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền, cơ quan, đơn vị nơi công
tác; được cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định cho thực hiện hoặc thực
hiện thí điểm”[4].
Bên cạnh đó, cần quy định thẩm quyền, tiêu chí đánh giá sự năng động, sáng tạo
có “mang lại giá trị, hiệu quả thiết thực, tạo
được chuyển biến mạnh mẽ, đóng góp tích cực vào sự phát triển chung”[4] như thế nào.
Trong trường hợp pháp luật bất cập “chưa được quy định hoặc đã có quy
định nhưng không phù hợp với thực tiễn” và có đủ thời gian để thực hiện quy
trình sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật thì sẽ thực hiện theo quy
trình này để bảo đảm “Thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trở thành chuẩn mực ứng
xử của mọi chủ thể trong xã hội”[6].
Do đó, việc khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng
động, sáng tạo vì lợi ích chung khi “chưa được quy định hoặc đã có quy
định nhưng không phù hợp với thực tiễn” thường là những tình huống cần giải
quyết cấp bách. Chính vì thế, trình tự, thủ tục xem xét quyết định cho thực
hiện hoặc thực hiện thí điểm phải nhanh chóng, thuận tiện.
Bốn là, để tránh tình trạng “Lợi dụng chủ
trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung để
thực hiện hành vi hoặc bao che hành vi tham nhũng, tiêu cực”[1], cần quy định rõ
trách nhiệm của người có thẩm quyền xem xét, quyết định cho thực hiện hoặc thực
hiện thí điểm, trách nhiệm của người đề xuất và trách nhiệm của các chủ thể
khác có liên quan. Cần quy định trách nhiệm theo cả hai cách tiếp cận, trách
nhiệm tích cực (có bổn phận, nghĩa vụ) và trách nhiệm tiêu cực (trách nhiệm
pháp lý khi có hành vi vi phạm, chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng
động, sáng tạo vì lợi ích chung để thực hiện hành vi hoặc bao che hành vi tham
nhũng, tiêu cực). Đối với hành vi tiêu cực, cần quy định rõ tính chất, mức độ
gây thiệt hại của phương án được đề xuất và hình thức trách nhiệm pháp lý tương
ứng cũng như chế tài cần áp dụng. Bên cạnh đó, cũng cần quy định các điều kiện
miễn trừ, giảm nhẹ trách nhiệm pháp lý.
Năm là, nâng
cao nhận thức, trách nhiệm của cấp uỷ, tổ chức đảng, nhất là người đứng đầu,
tạo sự thống nhất cao trong toàn Đảng và đồng thuận trong xã hội về chủ trương
khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột
phá vì lợi ích chung. Từ đó, có thể nâng cao hiệu quả sự lãnh đạo của
các cấp uỷ Đảng, sự chủ động của Nhà nước và sự ủng hộ của các tầng lớp nhân
dân trong quá tình thể chế hoá quan điểm của Đảng về khuyến khích và bảo vệ cán
bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung, đồng thời cũng là cơ chế kiểm soát xây
dựng pháp luật, phòng ngừa tham nhũng chính sách và những tiêu cực vì lợi ích
nhóm.
Kết luận
Để thực hiện tốt
nguyên tắc Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ, tiếp tục xây dựng
và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn
mới, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho phát triển nhanh
và bền vững của đất nước thì việc thể chế kịp thời, đúng đắn quan điểm của Đảng
về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung là yêu cầu
tất yếu khách quan. Trong quá trình thể chế hóa quan điểm của Đảng về khuyến
khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, vì lợi ích chung cần bảo đảm tính
nhất quán, quy định rõ đối tượng, điều kiện để được bảo vệ, khuyến khích, thẩm
quyền, quy trình, thủ tục và trách nhiệm của người có thẩm quyền. Đồng thời,
cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy tổ chức đảng, nhất là người đứng
đầu góp phần bảo vệ, khuyến khích hiệu quả thực chất.
Tài liệu tham khảo:
[1] Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng,
tiêu cực (2022), Hướng dẫn số 25-HD/BCĐTW
ngày 1 tháng 8 năm 2022 hướng dẫn một số nội dung về công tác phòng, chống tiêu
cực, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2018), Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 về
tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm
chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ,
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
tập I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Kết luận 14-KL/TW ngày 22 tháng 9 năm 2021 về chủ trương
khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung,
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Quy định số 37-QĐ/TW ngày 25 tháng 10 năm
2021 về những điểu đảng viên không được làm,
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam (2022), Nghị quyết số
27-NQ/TW Ngày 9 tháng 11 năm 2022 về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới,
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam (2022), Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 17/11/2022 về
tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống
chính trị trong giai đoạn mới, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn
[8] Quốc hội (2013), Hiến
pháp năm 2013, https://chinhphu.vn
[9] Quốc hội (2021), Luật Doanh nghiệp năm 2020,
https://vanban.chinhphu.vn