Thứ Ba, ngày 15/08/2023, 09:40

Quan điểm của Đảng về khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung - một số khuyến nghị

Vũ Quỳnh Mai
Trường Đại học Hùng Vương.

(GDLL) - Thể chế hoá quan điểm, đường lối của Đảng thành luật pháp là đòi hỏi tất yếu nhằm giải quyết tốt mối quan hệ trong nguyên tắc Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ. Những quan điểm của Đảng về khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung đã được thể hiện trong Văn kiện của Đảng những năm gần đây song chưa được thể chế hoá thành pháp luật, tạo cơ sở pháp lý hiện thực hoá các quan điểm này. Bài viết tập trung hệ thống hóa các quan điểm của Đảng, sự cần thiết phải thể chế hoá và đề xuất một số kiến nghị nhằm thể chế hoá kịp thời, đúng đắn quan điểm của Đảng về khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung.

Đặt vấn đề

Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội bằng đường lối, chính sách; Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thượng tôn Hiến pháp, pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp luật. Nếu các quan điểm của Đảng không được thể chế hoá thành pháp luật và được hiện thực hoá thông qua hành vi của các chủ thể trong xã hội trong đó có đội ngũ cán bộ thì các quan điểm của Đảng sẽ không được thực hiện một cách hiệu quả. Nghiên cứu để đưa ra các kiến nghị thể chế hoá quan điểm của Đảng, trong đó có quan điểm về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay. 

1. Quan điểm của Đảng về khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn khuyến khích, phát huy sự năng động, sáng tạo của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng; công tác cán bộ là khâu "then chốt" của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Đảng khẳng định “Đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ là đầu tư cho phát triển lâu dài, bền vững”[2].

 “Bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”[3, tr.100]. “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước[3, tr. 118]. “Lấy nhân dân làm trung tâm”, “lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”[3, tr.28]. “Lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng hoạt động của chính quyền”[3, tr.192]. Vì vậy, trong bối cảnh xã hội vận động và phát triển không ngừng, để giải quyết những khó khăn, thách thức mà thực tế đặt ra, tạo nên các đột phá để thúc đẩy sự phát triển của đất nước, Đảng định hướng “có cơ chế lựa chọn, đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài, khuyến khích, bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung”[3, tr.179], nhưng cũng cần hình thành cơ chế để không thể, không dám, không cần và không muốn tham nhũng, tiêu cực[6]. Đây chính là những định hướng lớn, có ý nghĩa chỉ đạo trong xây dựng và thực hiện cơ chế khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung. 

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải “bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật”; “pháp luật trở thành chuẩn mực ứng xử của mọi chủ thể trong xã hội”[6]. Vì vậy, cơ chế khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung phải được dựa trên cơ sở luật pháp, đặt ra yêu cầu phải “kịp thời thể chế hoá, cụ thể hoá, triển khai đúng đắn, hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng”[3, tr.180,181], trong đó có cơ chế khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung. Điều đó cũng thể hiện quan điểm vận hành thông suốt cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ tại Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 17/11/2022 Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới.

Ngày 22 tháng 9 năm 2021, Bộ Chính trị đã ban hành kết luận chuyên sâu về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung. Bộ Chính trị kết luận khơi dậy mạnh mẽ ý thức trách nhiệm, khát vọng cống hiến, tinh thần đổi mới, hết lòng, hết sức vì nhân dân phục vụ của đội ngũ cán bộ”; “Trong quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, xuất phát từ yêu cầu, đòi hỏi cấp thiết của thực tiễn, khuyến khích cán bộ có tư duy sáng tạo, cách làm đột phá, tháo gỡ, giải quyết những điểm nghẽn, nút thắt trong cơ chế, chính sách, tập trung vào những vấn đề chưa được quy định hoặc đã có quy định nhưng không phù hợp với thực tiễn, mang lại giá trị, hiệu quả thiết thực, tạo được chuyển biến mạnh mẽ, đóng góp tích cực vào sự phát triển chung”. Đồng thời với việc khẳng định cần khuyến khích, bảo vệ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung, Bộ Chính trị cũng thể hiện rõ quan điểm “Đề xuất đổi mới, sáng tạo của cán bộ phải báo cáo với người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền, cơ quan, đơn vị nơi công tác; được cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định cho thực hiện hoặc thực hiện thí điểm, bảo đảm không trái với Hiến pháp và Điều lệ Đảng”, thường xuyên theo dõi, kiểm tra, giám sát, xem xét, điều chỉnh, có quyết định phù hợp với tình hình thực tế, xử lý nghiêm việc lợi dụng chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ để thực hiện hoặc bao che hành vi vụ lợi, tham nhũng, tiêu cực, vi phạm kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước[4]

2. Sự cần thiết phải thể chế hoá quan điểm của Đảng về khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung

Thứ nhất, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng. Điều 4, Hiến pháp năm 2013 khẳng định “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”[8]. Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội thông qua Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng và chủ trương. Đảng ban hành các Nghị quyết, chỉ thị, quy định... thể hiện quan điểm, định hướng xây dựng Nhà nước và phát triển xã hội. Vì vậy, việc thể chế hoá các quan điểm của Đảng nói chung và quan điểm của Đảng về khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung là yêu cầu tất yếu, đã trở thành nguyên tắc hiến định. Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 17/11/2022 tại Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới đã khẳng định “Nâng cao năng lực tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, nhất là thể chế hoá, cụ thể hoá thành luật và các văn bản dưới luật”. Tuy nhiên, kể từ khi có Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII, Kết luận 14 của Bộ Chính trị tháng 9 năm 2021cho đến nay, chưa có văn bản pháp luật nào thể chế hoá, quy định cụ thể, tập trung về cơ chế khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung. 

Thứ hai, giải quyết những thách thức về khả năng đáp ứng của luật pháp với sự phát triển nhanh chóng của xã hội, đặc biệt là khoa học, công nghệ. 

Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung, pháp luật thể hiện tính phổ quát, đòi hỏi vừa phải thể hiện được tính bao quát các tình huống trong xã hội, đáp ứng yêu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội, thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ xã hội. Vì vậy, quy trình ban hành pháp luật cần chặt chẽ, mọi chủ thể liên quan, mọi khía cạnh liên quan đều phải được nghiên cứu, cân nhắc kỹ lưỡng, đồng thời bảo đảm sự tham gia của Nhân dân với tư cách là chủ thể của quyền lực nhà nước, sự tham vấn các chuyên gia nước ngoài. Điều đó có nghĩa là khó có thể có những đạo luật vừa đáp ứng được những yêu cầu của xây dựng pháp luật nêu trên, vừa có thể phản ứng tức thời với những vấn đề đang liên tục phát sinh, những vấn đề thảm hoạ, dịch bệnh bất ngờ, nguy hiểm như COVID - 19 mà thế giới vừa trải qua hay vấn đề công nghệ. Để giải quyết thách thức nêu trên, phương thức thử nghiệm, thí điểm, cho phép triển khai ngay mà không cần chờ đợi trải qua các bước ban hành văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh chính thức được coi là phương thức phù hợp. Cơ chế này cũng tạo ra cơ sở thực tiễn cho việc ban hành các quy định điều chỉnh chính thức sau này với phương châm “những vấn đề thực tiễn đòi hỏi, đã rõ, được thực tiễn chứng minh là đúng, có sự thống nhất cao thì kiên quyết thực hiện”[6]

Thứ ba, thực hiện hiệu quả các quan điểm, đường lối của Đảng. 

Pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự, các quy tắc ấy xác định giới hạn của hành vi con người, có tính bắt buộc chung đối với mọi chủ thể trong xã hội. Vì vậy, thể chế hoá quan điểm của Đảng về khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung chính là việc biến những định hướng chung của Đảng thành những quy phạm cụ thể được bảo đảm thực hiện bằng quyền lực nhà nước. Nhà nước có thể dùng quyền lực của mình để triển khai rộng khắp những quan điểm của Đảng đã được thể hiện ở các quy phạm pháp luật. Các chế tài mà Nhà nước có thể áp dụng cho những hành vi vi phạm pháp luật có thể tước đi quyền sở hữu, quyền tự do, thậm chí là quyền sống của con người, nó đủ sức răn đe và định hướng hành vi con người một cách hiệu quả. Điều này không được thể hiện trong việc áp dụng các hình thức kỷ luật của Đảng. Việc thể chế hoá các quan điểm của Đảng thành pháp luật cũng là bảo đảm thực thi Quy định số 37- QĐ/TW về những điều đảng viên không được làm, trong đó có “làm những việc mà pháp luật không cho phép”[5]. 

 Thứ tư, công khai, minh bạch nhằm kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. 

Việc thể chế hoá những quan điểm chung mang tính định hướng của Đảng thành các quy phạm pháp luật chính là quá trình cụ thể hoá, làm rõ các định hướng chung thành các tiêu chuẩn, định mức, quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của từng chủ thể phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Đây chính là quá trình minh bạch hoá, hình thành, hoàn thiện cơ chế phòng ngừa chặt chẽ để không thể tham nhũng, tiêu cực. Việc thể chế hoá quan điểm của Đảng thành luật pháp cũng chính là xác định một cách rõ ràng sự phân công quyền lực của từng chủ thể, vạch rõ giới hạn của quyền lực để các chủ thể tự kiểm soát quyền lực của mình và kiểm soát quyền lực của các chủ thể khác một cách hợp pháp. 

3. Một số khuyến nghị nhằm thể chế hoá quan điểm của Đảng về khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung

Một là, cần ban hành một đạo luật về khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung. Theo Kết luận số 14, sự năng động, sáng tạo vì lợi ích chung được khuyến khích, bảo vệ khi tháo gỡ, giải quyết những điểm nghẽn, nút thắt trong cơ chế, chính sách, tập trung vào những vấn đề chưa được quy định hoặc đã có quy định nhưng không phù hợp với thực tiễn và bảo đảm không trái với Hiến pháp và Điều lệ Đảng. Như vậy, đột phá, sáng tạo có thể vượt ra ngoài những quy định của một đạo luật khi những quy định này không còn phù hợp với thực tiễn (trừ đạo luật gốc là Hiến pháp). Vì vậy, xét về hiệu lực pháp lý, văn bản quy phạm pháp luật quy định về việc khuyến khích, bảo vệ cán bộ dám đổi mới, sáng tạo khác với quy định của một đạo luật nhất thiết phải là một đạo luật. Mặt khác, trong quá trình sáng tạo, đổi mới vì lợi ích chung, rất có thể sẽ phải hạn chế quyền của một số chủ thể. Trong khi đó, Điều 14, Hiến pháp 2013 quy định “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật”. 

Hai là, cần thể chế hoá để quy định rõ ràng cán bộ được nêu trong Kết luận 14 là đối tượng nào? Cán bộ ở đây có tương đương với khái niệm cán bộ được quy định trong Luật cán bộ, công chức năm 2008 (là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; được bầu giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội). Công chức, viên chức có được áp dụng cơ chế này không? Ngoài cán bộ, công chức, viên chức có thể có đối tượng nào khác được hưởng cơ chế này? Theo chúng tôi nên quy định cán bộ được nêu trong Kết luận 14 bao gồm cán bộ (theo Luật cán bộ, công chức), công chức, viên chức và người đại diện theo pháp luật trong các doanh nghiệp nhà nước. Đây là những đối tượng hoạt động nhân danh quyền lực công hoặc làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập (viên chức) hoặc trong “các doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, tổng số cổ phần có quyền biểu quyết”[9]. Vì vậy, hoạt động thực tiễn của họ có ảnh hưởng không nhỏ tới lợi ích chung phù hợp với mục tiêu của sự năng động, sáng tạo mà Kết luận 14 đã đưa ra. 

Ba là, cần quy định rõ thế nào là năng động, sáng tạo; thế nào là khuyến khích, bảo vệ; thế nào là vì lợi ích chung? điều kiện để được bảo vệ, khuyến khích; thẩm quyền, quy trình, thủ tục, trình tự “báo cáo với người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền, cơ quan, đơn vị nơi công tác; được cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định cho thực hiện hoặc thực hiện thí điểm”[4]. Bên cạnh đó, cần quy định thẩm quyền, tiêu chí đánh giá sự năng động, sáng tạo có “mang lại giá trị, hiệu quả thiết thực, tạo được chuyển biến mạnh mẽ, đóng góp tích cực vào sự phát triển chung”[4] như thế nào. Trong trường hợp pháp luật bất cập “chưa được quy định hoặc đã có quy định nhưng không phù hợp với thực tiễn” và có đủ thời gian để thực hiện quy trình sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật thì sẽ thực hiện theo quy trình này để bảo đảm “Thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trở thành chuẩn mực ứng xử của mọi chủ thể trong xã hội”[6]. Do đó, việc khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung khi “chưa được quy định hoặc đã có quy định nhưng không phù hợp với thực tiễn” thường là những tình huống cần giải quyết cấp bách. Chính vì thế, trình tự, thủ tục xem xét quyết định cho thực hiện hoặc thực hiện thí điểm phải nhanh chóng, thuận tiện.

Bốn là, để tránh tình trạng “Lợi dụng chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung để thực hiện hành vi hoặc bao che hành vi tham nhũng, tiêu cực”[1], cần quy định rõ trách nhiệm của người có thẩm quyền xem xét, quyết định cho thực hiện hoặc thực hiện thí điểm, trách nhiệm của người đề xuất và trách nhiệm của các chủ thể khác có liên quan. Cần quy định trách nhiệm theo cả hai cách tiếp cận, trách nhiệm tích cực (có bổn phận, nghĩa vụ) và trách nhiệm tiêu cực (trách nhiệm pháp lý khi có hành vi vi phạm, chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung để thực hiện hành vi hoặc bao che hành vi tham nhũng, tiêu cực). Đối với hành vi tiêu cực, cần quy định rõ tính chất, mức độ gây thiệt hại của phương án được đề xuất và hình thức trách nhiệm pháp lý tương ứng cũng như chế tài cần áp dụng. Bên cạnh đó, cũng cần quy định các điều kiện miễn trừ, giảm nhẹ trách nhiệm pháp lý. 

Năm là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp uỷ, tổ chức đảng, nhất là người đứng đầu, tạo sự thống nhất cao trong toàn Đảng và đồng thuận trong xã hội về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung. Từ đó, có thể nâng cao hiệu quả sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, sự chủ động của Nhà nước và sự ủng hộ của các tầng lớp nhân dân trong quá tình thể chế hoá quan điểm của Đảng về khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung, đồng thời cũng là cơ chế kiểm soát xây dựng pháp luật, phòng ngừa tham nhũng chính sách và những tiêu cực vì lợi ích nhóm. 

Kết luận

Để thực hiện tốt nguyên tắc Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững của đất nước thì việc thể chế kịp thời, đúng đắn quan điểm của Đảng về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung là yêu cầu tất yếu khách quan. Trong quá trình thể chế hóa quan điểm của Đảng về khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, vì lợi ích chung cần bảo đảm tính nhất quán, quy định rõ đối tượng, điều kiện để được bảo vệ, khuyến khích, thẩm quyền, quy trình, thủ tục và trách nhiệm của người có thẩm quyền. Đồng thời, cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy tổ chức đảng, nhất là người đứng đầu góp phần bảo vệ, khuyến khích hiệu quả thực chất.

Tài liệu tham khảo:

[1] Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực (2022), Hướng dẫn số 25-HD/BCĐTW ngày 1 tháng 8 năm 2022 hướng dẫn một số nội dung về công tác phòng, chống tiêu cực, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2018), Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn 

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Kết luận 14-KL/TW ngày 22 tháng 9 năm 2021 về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn 

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Quy định số 37-QĐ/TW ngày 25 tháng 10 năm 2021 về những điểu đảng viên không được làm, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn 

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam (2022), Nghị quyết số 27-NQ/TW Ngày 9 tháng 11 năm 2022 về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn 

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam (2022), Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 17/11/2022 về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn

[8] Quốc hội (2013), Hiến pháp năm 2013, https://chinhphu.vn 

[9] Quốc hội (2021), Luật Doanh nghiệp năm 2020, https://vanban.chinhphu.vn 

Đọc thêm

Phát huy “Hào khí” Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới

Tác giả: Nguyễn Văn Nghĩa

(GDLL) - Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chiến dịch Điện Biên Phủ (13-3 đến 7-5-1954) đã giành thắng lợi vang dội, giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của thực dân Pháp, góp phần đưa hội nghị Giơ-ne-vơ đến thành công; là sự phát triển đến đỉnh cao của nghệ thuật quân sự, nghệ thuật chiến dịch Việt Nam. Từ “hào khí” chiến thắng Điện Biên Phủ, bài viết gợi mở những nội dung phát huy "hào khí" đó vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.

Tính độc đáo của nền đối ngoại, ngoại giao mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”

Tác giả: Bùi Giang Nam

(GDLL) - Trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam, nền đối ngoại, ngoại giao (bao gồm đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại Nhân dân) luôn giữ một vai trò hết sức quan trọng. Trên cơ sở phân tích đường lối đối ngoại của Việt Nam thời kỳ đổi mới và những thành tựu đã đạt được, bài viết làm sáng tỏ tính độc đáo của nền ngoại giao Việt Nam hiện nay, đó là nền đối ngoại, ngoại giao mang đậm bản sắc “Cây tre Việt Nam”.

Thực hiện chủ trương của Đảng về khuyến khích, tạo điều kiện phát triển các công ty, tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh

Tác giả: ThS Lê Quốc

(LLCT) - Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng”(1), chủ trương khuyến khích, tạo điều kiện phát triển các công ty, các tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh. Bài viết làm rõ vai trò của doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự đổi mới trong nhận thức và thực tiễn phát triển doanh nghiệp tư nhân trong thời kỳ đổi mới. Từ đó, đề xuất giải pháp phát triển các công ty và tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có sức cạnh tranh cao trong những năm tiếp theo.

Nâng cao phúc lợi xã hội cho nhân dân theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 8 khóa XIII

Tác giả: TS. Đỗ Văn Quân - ThS. Nguyễn Trọng Tuân

(TG) - Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh, một trong những giải pháp để bảo đảm cho sự tiến bộ và công bằng xã hội trở thành hiện thực trên đất nước ta là thực hiện tốt phúc lợi xã hội.

Nâng cao khả năng thích ứng của nguồn nhân lực Việt Nam trước yêu cầu Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Tác giả: Nguyễn Mai Phương

(GDLL) - Thế giới đã và đang chứng kiến những thay đổi to lớn về mặt khoa học, công nghệ do cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại. Bài viết nghiên cứu về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những yêu cầu đặt ra đối với nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay; Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng thích ứng của nguồn nhân lực Việt Nam trước yêu cầu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.