Dự án sử dụng nguồn vốn
ODA. (Ảnh: https://vneconomy.vn)
Đặt vấn đề
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện nay, để tăng khả năng hấp dẫn của môi
trường đầu tư trong nước đòi hỏi Việt Nam cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp
và kết hợp việc nghiên cứu, so sánh chính sách đầu tư của các quốc gia có những
bứt phá thần tốc, đặc sắc trong giai đoạn vừa qua. Singapore là một đại diện
tiêu biểu với những thành quả ấn tượng trong thu hút và kêu gọi nguồn vốn đầu
tư nước ngoài. Trung Quốc, Thái Lan lại là những quốc gia có được những lộ
trình, chiến lược hợp lý trong hoàn thiện môi trường đầu tư, đây sẽ là những
gợi ý rất giá trị cho Việt Nam. Những kinh nghiệm này sẽ giúp Việt Nam sớm tạo
dựng môi trường đầu tư thân thiện, trở thành điểm đến hấp dẫn của các công ty
đa quốc gia, từ đó có thể phát huy được tiềm năng thế mạnh của mình đồng thời
đạt được mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đã đề ra trong Chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội giai đoạn 2021-2030.
1. Quan niệm về chính sách thu hút đầu tư
Trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nhà nước với vai trò là chủ thể quản
lý, sử dụng các công cụ quản lý để tác động vào nền kinh tế nhằm đạt được các
mục tiêu xác định trong từng thời kỳ. Chính sách thu hút đầu tư - một trong các
công cụ quản lý của Nhà nước, được hiểu là tập hợp các biện pháp thích hợp nhằm
khuyến khích đầu tư tư nhân, thu hút các dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài,
qua đó kích thích tăng trưởng hợp lý, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
tiến bộ, tạo việc làm, cải thiện chất lượng sống cho dân cư. Bộ công cụ của
chính sách thu hút đầu tư rất đa dạng. Trong đó nhóm công cụ ưu đãi đầu tư và
nhóm công cụ định hướng đầu tư được sử dụng nhằm vừa tạo điều kiện hấp dẫn, mở
rộng quy mô thu hút các dòng vốn, vừa nâng cao chất lượng cũng như sức cạnh
tranh của môi trường đầu tư quốc gia. Nếu như nhóm công cụ ưu đãi đầu tư gồm
những ưu đãi về thuế, về hỗ trợ pháp lý, tiếp cận mặt bằng sản xuất kinh doanh,
đào tạo nhân lực, chuyển giao công nghệ, trao đổi thương mại... là lực hút để
các nhà đầu tư quyết tâm rót vốn thì nhóm các công cụ định hướng đầu tư gồm quy
hoạch, chiến lược, kế hoạch phát triển quốc gia, là sự “uốn nắn” của Nhà nước
nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo định hướng phát triển đất nước.
Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức thực hiện vẫn còn bất cập.
2. Kinh nghiệm của một số quốc gia
2.1. Singapore
Quốc đảo Singapore đã có những
bước phát triển thần kỳ trở thành một đất nước với môi trường đầu tư kinh doanh
thân thiện, bộ máy hành chính giải quyết việc cực kỳ nhanh chóng, quản lý minh
bạch và khung pháp lý hiệu quả. Có thể nghiên cứu các bài học
kinh nghiệm của Singapore trong thu hút nguồn vốn FDI với các nội dung cơ bản
sau:
Thứ nhất, định hướng chiến lược
cho lĩnh vực cần ưu tiên thu hút đầu tư
Singapore xác định 3 lĩnh vực
cần ưu tiên trong thu hút nguồn vốn FDI bao gồm: ngành sản xuất mới, xây dựng
và xuất khẩu. Tùy từng giai đoạn phát triển của đất nước, Chính phủ Singapore
sẽ ưu tiên thu hút nguồn vốn đầu tư vào các lĩnh vực phù hợp. Trong giai đoạn
đầu, khi nền kinh tế ở điểm xuất phát thấp, Singapore chủ trương sử dụng nguồn
vốn FDI vào các ngành tạo ra sản phẩm xuất khẩu như dệt may, lắp ráp thiết bị
điện và phương tiện giao thông... Trong giai đoạn tiếp theo, tập trung vào
những ngành như sản xuất máy vi tính, điện tử, hàng bán dân dụng, công nghiệp
lọc dầu và kỹ thuật khai thác mỏ... để phù hợp với bối cảnh phát triển nhanh
chóng của ngành công nghiệp điện tử và một số công nghệ tiên tiến khác.
Bên cạnh đó, để thực hiện chiến
lược phát triển công nghiệp hướng ra xuất khẩu, Singapore thành lập Hội đồng
Phát triển Kinh tế, là cơ quan độc lập của Chính phủ, hoạt động theo nguyên tắc
một cửa, nghiên cứu, cân nhắc những yêu cầu của nhà đầu tư và có định hướng vào
các ngành công nghiệp mũi nhọn của đất nước như sửa chữa tàu biển, gia công kim
loại, hóa chất, thiết bị và linh kiện. Gần đây, Singapore đã áp dụng cách tiếp
cận theo cụm, tập trung vào những công ty thuộc các ngành điện tử - bán dẫn,
hóa dầu và công nghiệp chế biến để thu hút vốn FDI, đồng thời tăng cường mối
liên kết và các tác động lan tỏa. Ngoài ra, Chính phủ Singapore cũng nhấn mạnh
đến thu hút vốn FDI hướng vào việc tạo ra một hệ thống các ngành dịch vụ thúc
đẩy đầu tư quốc tế.
Thứ hai, cải thiện môi trường
pháp lý công bằng, đảm bảo đơn giản hóa thủ tục và quy trình đầu tư
Đến nay, hệ thống pháp luật của
Singapore được đánh giá cao về tính hiệu quả và nhất quán, đặc biệt trong định
hướng đầu tư đã giúp cho các doanh nghiệp (DN) tại Singapore không phải chứng
kiến tình trạng xử lý thủ tục pháp lý chậm chạp như nhiều nước trong khu vực.
Chính phủ coi việc tiếp cận với pháp luật là giá trị kinh tế nền tảng nhằm nâng
cao uy tín cho Singapore, để trở thành một trung tâm thương mại và pháp lý hàng
đầu ở châu Á. Khuôn khổ pháp lý của Singapore tạo ra một sân chơi bình đẳng cho
các nhà đầu tư nước ngoài, không giới hạn sở hữu nước ngoài và không có kiểm
soát ngoại hối. Khi nhà đầu tư nước ngoài kinh doanh có lợi nhuận thì có quyền
tự do chuyển lợi nhuận về nước. Ngoài ra, Singapore còn chú trọng xây dựng kết
cấu hạ tầng, phục vụ cho hoạt động sản xuất; thủ tục cấp giấy phép đơn giản,
thuận tiện, thậm chí nhiều dự án chỉ mất 49 ngày để có thể đi vào sản xuất kinh
doanh.
Mặc dù không có luật riêng về
đầu tư nhưng thông qua các chính sách liên quan đến các hoạt động đầu tư được
điều chỉnh bởi luật chung cho thấy Singapore không có sự phân biệt đối xử giữa
đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước, ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt
được quy định bởi luật cụ thể.
Thứ ba, chính sách ưu đãi thuế
hấp dẫn
Hệ thống thuế của Singapore
được coi là biểu tượng của sự “đơn giản và thân thiện với nhà đầu tư”. Mức thuế
DN cao nhất là 17% (mức thấp nhất thế giới). Singapore cũng ký kết hiệp định
tránh đánh thuế hai lần (DTA) với hơn 80 quốc gia trên thế giới[6] góp phần
quan trọng trong giảm gánh nặng thuế cho DN nước ngoài đầu tư vào quốc gia này.
Mạng lưới DTA mở rộng đã giúp Singapore trở thành quốc gia hấp dẫn nhất cho đầu
tư kinh doanh đặc biệt là kinh doanh bằng hình thức liên doanh.
2.2. Trung Quốc
Trung Quốc là một trong những
nền kinh tế lớn, có tốc độ tăng trưởng cao hàng đầu thế giới và trở thành điểm
đến thứ hai thế giới trong thu hút FDI với rất nhiều bài học thành công trong
sử dụng chính sách đầu tư, cụ thể như sau:
Thứ nhất, thận trọng trong định
hướng đầu tư và luôn xuất phát từ thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội
Chính phủ Trung Quốc luôn xác
định cần thận trọng trong mở cửa đầu tư, phát triển cân đối các vùng miền. Điều
này được thể hiện trong xây dựng khuôn khổ pháp lý trên cơ sở vừa tạo điều kiện
cho các nhà đầu tư, vừa giám sát chặt chẽ nguồn vốn này. Trung Quốc luôn giữ
vững nguyên tắc “mở cửa từng điểm, tiến tới mở cửa toàn diện, khi đã có kết quả
thì nhân rộng ra các vùng khác” và được cụ thể hóa trong luật pháp. Đầu tiên, chính
sách đầu tư nói chung và chính sách đầu tư nước ngoài nói riêng được thử nghiệm
ở các đặc khu kinh tế sau đó mở rộng ra các thành phố ven biển Thái Bình Dương,
tạo thành cánh cung khổng lồ, trở thành địa bàn trọng điểm thu hút FDI. Song
song với đó, Chính phủ điều tiết dần nguồn vốn sang các vùng khác nhằm tạo động
lực để rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền.
Mọi chính sách đầu tư của Trung
Quốc luôn xuất phát từ thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội. Những năm đầu cải
cách, Luật 1979 có hiệu lực, Trung Quốc chỉ giới hạn thu hút đầu tư ở một số
đặc khu kinh tế. Đến năm 1982, khi đã có những đánh giá hiệu quả về mở cửa và
thu hút nguồn vốn FDI, Trung Quốc mới sửa đổi lại Hiến pháp và liên tục hoàn
thiện khuôn khổ pháp lý cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Tiếp sau đó,
Trung Quốc đã có 4 lần bổ sung, điều chỉnh Luật pháp và cơ chế chính sách liên
quan đến thu hút FDI vào các năm 1983; 1986; 1990 và 2006. Luật Đầu tư nước
ngoài của Trung Quốc được điều chỉnh lần thứ tư (năm 2006)[3] thông qua
hai biện pháp điều chỉnh cơ bản: Một là, ban
hành các điều khoản cho phép các nhà đầu tư nước ngoài mua lại và sáp nhập các
DN nhà nước; hai là, ban hành các danh mục chỉ
dẫn đầu tư nước ngoài trong các ngành công nghiệp như khuyến khích đầu tư, hạn
chế đầu tư, ngăn cấm đầu tư nhằm giới hạn đầu tư nước ngoài trong các ngành
này.
Thứ hai, hỗ trợ đầu tư đặc biệt,
ưu đãi thuế và trợ cấp nhằm thúc đầy đầu tư vào những ngành công nghệ cao, thân
thiện môi trường
Những năm gần đây, Trung Quốc
tập trung đẩy mạnh các chính sách ưu đãi về thuế, đất đai nhằm ưu tiên đầu tư
nước ngoài vào công nghệ 5G, thiết bị điện toán đám mây, robot công nghiệp, ô
tô năng lượng mới, phụ tùng linh kiện ô tô thông minh, vật liệu mới trong các
ngành dược phẩm, hàng không vũ trụ, trí tuệ nhân tạo, logistic, sản xuất sạch,
nông nghiệp xanh...
Luật Đầu tư nước ngoài mới của
Trung Quốc có hiệu lực từ 01/01/2020 còn tạo điều kiện cho ưu đãi vay, miễn
thuế, trợ cấp cho các DN nước ngoài đầu tư vào quốc gia này. Luật này tạo sự
thống nhất về tiếp cận, thúc đẩy đầu tư, quản lý đầu tư nước ngoài trên cơ sở
luật pháp và bình đẳng với các nhà đầu tư trong nước., ví dụ như Tesla, Tập
đoàn xe điện hàng đầu thế giới, chỉ mất 168 ngày làm việc (6 tháng) từ khâu xin
giấy phép đến nối điện cho siêu nhà máy Gigafactory Thượng Hải[4]. Tập đoàn
này cũng được tạo điều kiện thuận lợi nhất để phát triển như vay ưu đãi 1,6 tỷ
USD để xây dựng nhà máy rộng gần 900.000m2 ở Thượng Hải; được miễn thuế 10% và
nhận trợ cấp 3.600 USD từ chính phủ Trung Quốc cho mỗi xe ô tô khi đáp ứng các
quy định về môi trường[1].
Bên cạnh đó, để khuyến khích
đầu tư hiệu quả, Chính phủTrung
Quốc đã (i) xác định nhóm đối tượng hưởng ưu đãi, hỗ trợ đầu tư đặc biệt bao
gồmcác dự án thành
lập mới trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia được thành lập theo quyết định; dự
án đầu tư thuộc ngành, nghề có quy mô vốn đầu tư lớn; dự án đầu tư đặc biệt
quan trọng khác...; (ii) thực hiện các mức ưu đãi về thuế thu nhập DN (giảm 5%
thuế suất tối đa không quá 37,5 năm; miễn giảm thuế: 6 năm miễn, 13 năm giảm
50% thuế phải nộp); ưu đãi về tiền thuê đất, thuê mặt nước (thời gian miễn tiền
thuê không quá 22,5 năm và mức giảm không quá 75% tiền thuê đất); (iii) hỗ trợ
đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội trong và
ngoài hàng rào dự án đầu tư, hỗ trợ đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, hỗ trợ
tín dụng, hỗ trợ tiếp cận mặt bằng sản xuất, kinh doanh, hỗ trợ cơ sở sản xuất,
hỗ trợ khoa học kỹ thuật, hỗ trợ nghiên cứu và phát triển...
2.3. Thái Lan
Thái Lan đạt được kết quả cao
trong định hướng, hoạch định và thực hiện chính sách đầu tư nhờ những bước đi
hết sức ấn tượng, cụ thể như:
Thứ nhất, định hướng đầu tư bằng
chiến lược phát triển quốc gia dài hạn
Chiến lược quốc gia 20 năm
(giai đoạn 2017-2036) và Kế hoạch Kinh tế quốc gia và phát triển xã hội
(2017-2021) được Chính phủ Thái Lan công bố rất sớm, từ tháng 7/2016 nhằm đảm
bảo tính ổn định xuyên suốt về mục tiêu kinh tế vĩ mô, phương hướng phát triển
đất nước cùng với sự ổn định của các chính sách. Kế hoạch chiến lược quốc gia
được thực hiện trên 6 lĩnh vực (gồm: an ninh, tăng cường năng lực cạnh tranh,
phát triển nguồn nhân lực, bình đẳng trong xã hội, tăng trưởng xanh và phát
triển khu vực công và cân bằng); 6 chiến lược cơ bản (gồm: tăng cường và phát
triển tiềm năng con người, đảm bảo công lý và giảm bất bình đẳng xã hội, củng
cố kinh tế và tăng cường năng lực cạnh tranh bền vững, thúc đẩy tăng trưởng
xanh để phát triển bền vững, ổn định quốc gia, tăng cường hiệu quả quản lý khu
vực công và thúc đẩy quản trị tốt); 4 chiến lược hỗ trợ (gồm: phát triển cơ sở
hạ tầng và hệ thống logistics, khoa học công nghệ nghiên cứu và đổi mới, phát
triển đô thị, vùng miền và khu kinh tế, hợp tác quốc tế).
Thứ hai, ưu đãi đầu tư thông qua
mức miễn, giảm thuế hấp dẫn
Từ năm 2019, các gói chính sách
ưu đãi mới được đưa ra nhằm thu hút các DN nước ngoài đầu tư vào Thái Lan như
giảm thêm 59% thuế thu nhập DN trong 5 năm, tăng gấp đôi mức chiết khấu đối với
các chi phí dành cho đào tạo và miễn thuế DN trong 5 năm khi thành lập các cơ
sở phát triển kỹ năng. Đối với các DN đặt trụ sở ngoài thủ đô Bangkok, ngoài
việc miễn thuế từ 5-8 năm còn được giảm thêm 50% thuế thu nhập DN trong vòng 5
năm. Để phát triển các nguồn nhân lực và xây dựng lực lượng lao động tay nghề
cao, các công ty được khuyến khích chủ động đào tạo, thành lập các cơ sở đào
tạo và dạy nghề trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ và kỹ thuật, chính những
chi phí liên quan đến đầu tư phát triển nguồn nhân lực sẽ được đưa vào mục
chiết khấu để hưởng miễn thuế DN mà không có điều kiện về mức chi tối thiểu
Đối với các cơ sở mới thành lập
được miễn thuế nhập khẩu máy móc cần thiết, trong đó hồ sơ phải được nộp trong
năm 2021 và phải thuộc lĩnh vực của chương trình khuyến khích đầu tư hiện nay
của Chính phủ.
3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Từ việc nghiên cứu kinh nghiệm
của các quốc gia cho thấy, để sử dụng chính sách thu hút đầu tư hiệu quả thì
trước hết Việt Nam cần:
Trong định hướng đầu tư, xác định cụ thể các lĩnh vực tập trung ưu tiên đầu tư và phải đảm bảo phù
hợp với yêu cầu phát triển KT-XH của đất nước trong từng thời kỳ. Trên cơ sở
đó, cần xây dựng các Chiến lược, Quy hoạch, Kế hoạch phát triểnvà công bố các tài liệu này công khai, minh bạch nhằm tạo
cơ sở cho các nhà đầu tư tiếp cận thông tin nhanh chóng, kịp thời cũng như tạo
tâm lý, niềm tin cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước.Ngoài ra, cần thận trọng trong mở cửa đầu tư, phát
triển cân đối các vùng miền, xác định ngành nghề, đối tác đầu tư ưu tiên, đồng
thời cần căn cứ thực tiễn phát triển KT-XH của đất nước trong từng giai đoạn để
có sự điều chỉnh trong định hướng đầu tư.

Sự mở cửa đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đóng vai trò quan trọng trong thành tựu kinh tế Việt Nam
(Ảnh minh họa: TTXVN)
Trong ưu đãi đầu tư, cần hướng vào những ngành nghề cụ thể, các lĩnh vực có khả năng tạo ra
các hiệu ứng tích cực cho nền kinh tế. Tập trung vào các ngành nghề, lĩnh vực
ưu tiên như công nghệ cao, công nghệ thân thiện môi trường, năng lượng sạch,
năng lượng tái tạo, đầu tư cho con người, logistics, sản xuất nông nghiệp công
nghệ cao, nông nghiệp thông minh, phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật hiện đại. Chính sách ưu đãi đầu tư nên được cụ thể hơn phù hợp với
từng đối tượng đối tác đầu tư theo thứ tự ưu tiên.
Cần thay đổi quan điểm về thu hút nguồn vốn
đầu tư theo hướng ưu đãi thuế không phải là yếu tố duy nhất và quyết định. Việc
cải cách ưu đãi thuế trong thu hút nguồn vốn đầu tư phải nhằm tạo sự chuyển
biến tích cực trong phân bổ nguồn lực cho các vùng có điều kiện KT-XH khó khăn,
các ngành sản xuất sản phẩm có giá trị gia tăng cao và các lĩnh vực ưu tiên
khác. Ngoài công cụ thuế, cần thực hiện linh hoạt các công cụ ưu đãi khác phù
hợp.
Ngoài ra, cần rà soát, hoàn thiện thể chế, chính sách tránh chồng chéo hướng tới
tạo môi trường đầu tư ổn định, phù hợp với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần
tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, tránh phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư
trong nước và nước ngoài nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư đa dạng cho phát triển.
Đồng thời, cần hoàn thiện đồng bộ quy hoạch, quan tâm phát triển nguồn nhân lực, đáp ứng tốt hơn yêu cầu của các nhà đầu
tư cả về số lượng, cơ cấu và chất lượng. Chú trọng xây dựng kết cấu hạ
tầng phục vụ cho sản xuất, kinh doanh, thủ tục giấy phép đơn giản, thuận tiện,
nhanh chóng tạo điều kiện cho các dự án đầu tư có thể bước vào sản xuất trong
thời gian ngắn nhất. Tăng cường kiểm soát, giám sát, đánh giá các công nghệ
nhập khẩu, bảo vệ môi trường.
Và cuối cùng, cần xây dựng danh mục các lĩnh vực hạn chế thu hút đầu tư và thực hiện áp
dụng hàng rào kỹ thuật đối với các dự án đầu tư như điều kiện về vốn đầu tư tối
thiểu; điều kiện về suất đầu tư tối thiểu; điều kiện về công nghệ sử dụng trong
dự án... để hạn chế những dự án không phù hợp với định hướng phát triển của
vùng và cả nước.
Kết luận
Cùng với một số gợi ý về sử dụng các công cụ trong chính sách thu hút đầu
tư đã đưa ra, Việt Nam cũng cần có những biện pháp linh hoạt hơn trong việc tạo
dựng môi trường pháp lý, chủ động trong xây dựng cơ sở hạ tầng, điều chỉnh kịp
thời các chính sách đầu tư đảm bảo phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước
trong thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển như vũ bão hiện nay.