Để bảo đảm quyền lợi của cử tri, thành viên Tổ bầu cử số 05,
bản Mường Lạn, xã Mường Lạn, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La mang hòm phiếu đến tận
nhà để cử tri Lò Thị Pỉ (96 tuổi) được tận tay bỏ phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội
khóa XV và hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 – 2026. (Ảnh:
TTXVN)
Đặt vấn đề
Xây dựng, hoàn thiện pháp luật
về quyền con người trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một
nhiệm vụ quan trọng đã được Đảng ta xác định từ nhiều năm nay. Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) là nhà nước dân chủ, mọi hoạt động của nhà nước
đều vì nhân dân, hướng đến nhân dân. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có
trách nhiệm bảo đảm quyền con người, quyền công dân, thông qua các quy định
pháp luật về quyền con người. Chính vì vậy, Đảng ta đã xác định cần tiếp tục
xây dựng, hoàn thiện pháp luật về quyền con người, làm cơ sở cho bảo đảm và
thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam hiện nay: “Đẩy
mạnh việc hoàn thiện, xây dựng hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, hiện
đại, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, có sức cạnh tranh
quốc tế, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân”[2, tr.51].
1. Vai trò của pháp luật về quyền con
người trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
- Pháp luật
về quyền con người xác định mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân: Nhìn từ góc độ thể chế nhà nước - Một yếu tố nền tảng cho tổ chức và
hoạt động của Nhà nước pháp quyền XHCN, pháp luật là cơ sở để xác định mối quan
hệ giữa Nhà nước với cá nhân và các tổ chức trong xã hội. Mối quan hệ giữa Nhà
nước với cá nhân thể hiện ở hai khía cạnh: (1) Với tư cách quyền lực công, nhà
nước có chức năng tạo ra một khung pháp lý cần thiết (luật và các văn bản dưới
luật) để quản lý Nhà nước, quản lý xã hội;(2) Nhà nước có trách nhiệm ghi nhận
và bảo đảm đầy đủ các quyền, lợi ích chính đáng của cá nhân đã được pháp luật
ghi nhận. Điều này phản ánh thực sự bản chất của Nhà nước của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân.
- Pháp luật
về quyền con người thể hiện bản chất dân chủ của nhà nước pháp quyền XHCN: Xét về bản chất, Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân, mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân được thấm nhuần trong phương
châm: “dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm
tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.[2, tr.173]. Bản chất và hiệu lực của
Nhà nước phụ thuộc vào pháp luật quy định về quyền và lợi ích hợp pháp của con
người cũng như cơ chế bảo đảm các quyền đó. Nhà nước ta, với bản chất XHCN,
thực sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân - Việc xây dựng, hoàn thiện mối
quan hệ bình đẳng giữa Nhà nước và công dân là vấn đề thuộc về bản chất.
- Pháp luật
về quyền con người là một trong những điều kiện quan trọng để xây dựng Nhà nước
pháp quyền của dân, do dân và vì dân: Cơ sở để giải quyết mối quan
hệ giữa Nhà nước và công dân trong Nhà nước pháp quyền XHCN là quyền và nghĩa
vụ của tất cả công dân được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Trong đó Nhà nước
pháp quyền có nghĩa vụ tôn trọng giá trị cao nhất là con người; Nhà nước đề ra
pháp luật, đồng thời phải tuân thủ pháp luật. Điều đó có nghĩa là Nhà nước phải
tạo ra cho công dân sự bảo đảm rằng người dân không bị đòi hỏi những điều Hiến
pháp và pháp luật không quy định. Mặt khác, con người là mục tiêu và giá trị
cao nhất, do đó, Nhà nước phải đảm bảo cho con người sự an toàn pháp lý, được
hưởng các quyền và tự do cơ bản đó khỏi sự vi phạm, kể cả từ phía các cơ quan
Nhà nước và những người có chức vụ. Chính vì vậy, một mặt Nhà nước đề ra pháp
luật; mặt khác, chính Nhà nước, các cơ quan Nhà nước, những người có chức vụ
đều có nghĩa vụ bắt buộc phải tuân thủ triệt để pháp luật, không có một tổ chức
Nhà nước hoặc công chức nào được đặt mình đứng ngoài pháp luật, đứng trên pháp
luật, mọi công dân và tổ chức hợp pháp đều bình đẳng trước pháp luật.
2. Thực trạng pháp luật về quyền con
người ở Việt Nam hiện nay
Pháp luật về quyền con người
của Nhà nước Việt Nam được ghi nhận tại Hiến pháp năm 2013 và các văn bản luật
liên quan đến quyền con người, ngoài ra, còn được cụ thể hoá ở nhiều văn bản
quy phạm dưới luật khác. Để đánh giá sự hoàn thiện của pháp luật Việt Nam về
quyền con người, có thể dựa trên một số tiêu chí cơ bản như: Tính toàn diện;
Tính thống nhất, đồng bộ; Tính phù hợp; Tính khả thi và kỹ thuật pháp lý. Trên
cơ sở những tiêu chí đó, có thể nhận diện pháp luật Việt Nam về quyền con người
ở những ưu điểm và hạn chế như sau:
Trước hết, Hiến pháp năm 2013
đã thể hiện sâu sắc, toàn diện về Nhà nước pháp quyền, quyền con người, về bản
chất pháp quyền, dân chủ của mối quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân. Là Hiến pháp
của thời kỳ đổi mới toàn diện của Việt Nam trên đường hội nhập và phát triển,
việc xác định ở tầm hiến định mối quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng, thiết lập nền tảng pháp lý cho tổ chức, hoạt động của bộ
máy nhà nước, xây dựng, thực hiện pháp luật, tạo lập nền văn hóa nhân quyền và
phát triển bền vững. Hiến pháp 2013 thể hiện sự thay đổi lớn về nhận thức của
nhà nước ta về quyền con người, về chủ quyền nhân dân, về bản chất và các
nguyên tắc cơ bản của quyền con người và vai trò, trách nhiệm đảm bảo thực hiện
của Nhà nước pháp quyền. Hiến pháp năm 2013 đã xác định đầy đủ, rõ ràng các
nguyên tắc nền tảng của mối quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân trong Nhà nước
pháp quyền. Đó là vấn đề quyền con người được công nhận, tôn trọng, Nhà nước có
trách nhiệm trong việc công nhận, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công
dân; mối quan hệ bình đẳng, tương hỗ, đồng trách nhiệm giữa Nhà nước và cá nhân;
xác định giới hạn quyền con người, quyền công dân trên cơ sở luật định; nghĩa
vụ pháp lý; cơ chế bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân. Tại
Chương 2 của Hiến pháp năm 2013, Hiến pháp đã xác định khuôn mẫu, tiêu chuẩn
hành vi về quyền, cách thức thực hiện quyền, trách nhiệm của Nhà nước, đồng
thời thể hiện rõ các nguyên tắc pháp lý cơ bản cho bảo đảm quyền con người.
Hiến pháp 2013 và các văn bản pháp luật cụ thể hoá hiến pháp đã xác lập nguyên
tắc trách nhiệm Nhà nước trong việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền
con người, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội,
quyền của các nhóm dễ bị tổn thương được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm
theo Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của
Nhân dân; Các cơ quan Nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng
Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý
kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân; Nhà nước tạo mọi điều kiện để công dân
tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận,
phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân...
Việc hiến định nguyên tắc trách
nhiệm Nhà nước đối với con người, quyền con người có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng, tạo lập cơ sở chính trị - pháp lý, trật tự cho cả hệ thống pháp luật và
ý thức xã hội. Trên cơ sở Hiến pháp, nhiều văn bản luật đã được ban hành, cụ
thể hoá các quyền con người trong Hiến pháp. Có thể thấy hầu như các nhóm quyền
dân sự, chính trị; quyền kinh tế, xã hội và văn hoá; quyền của nhóm dễ bị tổn
thương được ghi nhận trong Hiến pháp 2013 đã được luật hoá như Luật bầu cử đại
biểu Quốc hội, bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp; Luật Khiếu nại, Luật
Tố cáo; Luật tiếp cận thông tin; Luật trưng cầu ý dân; Luật người cao tuổi; Luật
Trẻ em; Luật Bình đẳng giới...
Hiến pháp và các văn bản pháp
luật hiện hành cũng quy định giới hạn quyền, tự do con người và công dân, đó
chính là điều kiện để thực hiện đảm bảo tính hiện thực của các quyền con người,
bảo đảm sự cân bằng các loại lợi ích, minh bạch và lành mạnh hóa mối quan hệ
giữa Nhà nước và cá nhân, cá nhân và cộng đồng, xã hội. Quyền con người, quyền
công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần
thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã
hội, sức khỏe của cộng đồng. Quyền, tự do của con người và công dân có thể bị
hạn chế nhưng phải theo luật định, trong khuôn khổ luật định, phù hợp các
nguyên tắc của pháp luật quốc tế về quyền con người.
Như vậy có thể thấy pháp luật
Việt Nam về quyền con người cơ bản đã đáp ứng được các tiêu chí của một hệ
thống pháp luật hoàn thiện, từ sự toàn diện về các nhóm quyền theo cách tiếp
cận của pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia về quyền con người; Tính thống
nhất, đồng bộ, không mâu thuẫn giữa Hiến pháp với các luật và văn bản dưới
luật; Tính phù hợp cũng đảm bảo bởi đã kịp thời thể chế hoá các quyền con người
cơ bản trong Hiến pháp bằng các văn bản Luật và dưới luật; Các quy định pháp
luật về quyền con người cơ bản đảm bảo tính hiện thực trong những điều kiện
thực tế hiện nay; Thuật ngữ pháp lý, văn phong được sử dụng trong các văn bản
pháp luật về quyền con người đảm bảo tính dễ hiểu, dễ thực hiện, đáp ứng yêu
cầu bảo đảm, thúc đẩy quyền con người trong điều kiện hiện nay.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành
tựu trong ghi nhận quyền con người và cơ chế bảo đảm quyền con người, hệ thống
các văn bản pháp luật về quyền con người ở Việt Nam hiện nay còn bộc lộ một số
hạn chế nhất định. Các quy định liên quan đến Luật tiếp cận thông tin cũng chưa
được quy định cụ thể và thống nhất nên còn gặp một số bất cập trong tổ chức
thực hiện quyền tiếp cận thông tin của công dân... Những hạn chế này ít nhiều gây khó khăn cho
quá trình tổ chức thực thi quyền con người trên thực tế, do đó phần nào ảnh
hưởng đến cơ hội tiếp cận và thụ hưởng quyền con người ở Việt Nam.
3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật
về quyền con người đáp ứng yêu cầu hiện nay
Cùng với xây dựng Nhà nước pháp
quyền, mở rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, vấn đề bảo đảm quyền con người,
quyền công dân, nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, giữa
công dân với Nhà nước... luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm đặc biệt. Đảng đã
xác định: “Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất
lượng quy trình lập pháp, tập trung xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân”[2,
tr.175-176].
Hiến pháp 2013 đã tạo ra nền
tảng pháp lý quan trọng cho bảo đảm quyền con người ở Việt Nam, tuy nhiên, để
thực hiện trách nhiệm quốc gia trong bảo đảm và thúc đẩy quyền con người, thực
hiện nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII, đảm bảo trên thực tế các quyền con
người, hệ thống pháp luật Việt Nam về quyền con người cần được xây dựng, hoàn
thiện đáp ứng yêu cầu nhà nước pháp quyền: “Xây
dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công
khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người
dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát
triển nhanh, bền vững”[2, tr.175]. Xây dựng, hoàn thiện
pháp luật Việt Nam về quyền con người trong điều kiện hiện nay cần thực hiện
một số giải pháp cơ bản sau:
Một là, hoàn thiện cơ sở pháp lý
về sự bình đẳng giữa Nhà nước và công dân. Trong
Nhà nước pháp quyền, mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân là bình đẳng. Tuy
nhiên, quan hệ bình đẳng giữa Nhà nước và công dân cần phải được cụ thể hóa để
đảm bảo thực hiện. Chẳng hạn quan điểm, nội dung, phương thức thực hiện, hệ
thống công cụ, phương tiện... của mối quan hệ bình đẳng đó. Đây là những nội
dung quan trọng cần được thể chế hóa.
Mối quan hệ bình đẳng giữa Nhà
nước và công dân cần phải được nhìn nhận trong điều kiện Nhà nước pháp quyền,
trong điều kiện dân chủ hóa mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong mối quan hệ
này, Nhà nước và công dân đều có quyền và nghĩa vụ do Hiến pháp và pháp luật
quy định. Quyền của Nhà nước được bảo đảm bằng nghĩa vụ công dân, quyền của
công dân được bảo đảm bằng nghĩa vụ của Nhà nước. Nếu mỗi bên khi xác lập quan
hệ với nhau, đều thực hiện đúng và đầy đủ những quy định pháp luật; Nhà nước,
các cơ quan Nhà nước, mỗi cán bộ, công chức Nhà nước đều thực hiện đúng quyền và
nghĩa vụ của mình trước nhân dân và ngược lại, công dân cũng vậy, khi đó sự
bình đẳng sẽ được xác lập. Cần quy định đầy đủ, cụ thể, rõ ràng hơn về quyền và
nghĩa vụ của các cơ quan Nhà nước, của các chức danh, chức vụ của cán bộ, công
chức Nhà nước, về các chế độ trách nhiệm mà cơ quan, cán bộ, công chức Nhà nước
phải chịu khi có hành vi gây thiệt hại cho công dân trong thi hành nhiệm vụ,
công vụ; Hoàn thiện quy định của pháp luật cụ thể hóa các quyền công dân theo
hướng “công dân được làm những gì mà pháp luật không cấm”. Trong đó, đặc biệt
chú trọng hoàn thiện cơ chế bảo đảm quyền của công dân khi bị cơ quan, cán bộ,
công chức Nhà nước vi phạm; xác định cụ thể trách nhiệm của công dân nhằm bảo
đảm quyền của Nhà nước; Xây dựng, hoàn thiện chế độ chịu trách nhiệm của cơ
quan, cán bộ, công chức Nhà nước trước công dân, theo hướng nâng cao và cụ thể
hóa cả về quy định của pháp luật và trong thực tế.
Hai là, xây
dựng, hoàn thiện các quy định pháp luật đảm bảo thực hiện quyền con người,
quyền công dân trong mối quan hệ với Nhà nước.
Trong Nhà nước pháp quyền, các quy định pháp lý phải thực sự là cơ sở cho sự
củng cố, phát triển và thúc đẩy quyền con người. Thể chế hóa quyền con người
trong các đạo luật nhằm thể chế hóa những quy phạm hiến định. Pháp luật kinh tế
- dân sự: Cần cụ thể hóa quyền sở hữu tài sản hợp pháp, cải cách thể chế về
quyền tài sản, tự do hợp đồng; cụ thể hoá quyền hiến mô; đảm bảo thuận lợi hơn
cho việc thực hiện quyền mang thai hộ... Pháp luật về quyền chính trị: Hoàn
thiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở, nghiên cứu tham khảo luật về tự quản địa
phương, luật dân nguyện... Pháp luật hình sự và tố tụng: Quyền của bị can, bị
cáo; vai trò của các thiết chế bổ trợ tư pháp trong tố tụng hình sự; chế độ
tranh tụng trong tố tụng hình sự... Pháp luật thi hành án hình sự: Quyền của
người phạm tội, chế độ thi hành án... Pháp luật quốc tế: Tham gia (ký kết, phê
chuẩn...) và chuyển hóa (nội luật hóa, công bố...) kịp thời và đầy đủ các văn
kiện pháp lý quốc tế về quyền con người...
Ba là, xây dựng quy chế pháp lý về phản biện xã hội, giám sát xã hội
nhằm tăng cường vai trò của các tổ chức xã hội
đoàn thể quần chúng, các cơ quan thông tin đại chúng, nhất là vai trò của
truyền thông, báo chí... trong việc kiểm tra, giám sát các cơ quan, cán bộ,
công chức Nhà nước, phát hiện những vi phạm quyền con người. Hoàn thiện cơ chế
bảo vệ Hiến pháp, cơ chế giám sát, lấy phiếu, bỏ phiếu tín nhiệm đối với những
người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn. Hoàn thiện
pháp luật nhằm đảm bảo cơ sở thiết lập đồng bộ, gắn kết cơ chế giám sát, phản
biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân,
góp phần bảo đảm thực hiện pháp luật nghiêm minh, hướng đến công bằng, hướng
đến nhiệm vụ Đảng đặt ra: “Hoàn thiện đồng
bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội
chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân”[2, tr.202]. Hoàn thiện hệ thống luật
pháp về bảo hiểm xã hội, tiến tới thực hiện bảo hiểm xã hội toàn dân.
Bốn là, hoàn
thiện pháp luật về cơ chế bảo đảm quyền con người: Các quyền con người được quy định trong Hiến pháp 2013 và các văn bản
luật chỉ có ý nghĩa khi được bảo đảm và thúc đẩy, các đối tượng được tiếp cận
và hưởng thụ quyền một cách hiệu quả trên thực tế. Trách nhiệm của Nhà nước đối
với bảo đảm thực thi quyền con người không chỉ là ghi nhận quyền mà còn phải
bảo đảm các điều kiện cần thiết và cơ chế bảo đảm quyền vận hành hiệu quả.
Chính vì vậy, cần hoàn thiện pháp luật về cơ chế bảo đảm quyền con người và
phương thức vận hành của cơ chế đó. Đổi mới vai trò lãnh đạo của Đảng đối với
bảo đảm quyền con người, nâng cao chất lượng các chính sách về quyền con người.
Đối với thiết chế Nhà nước, pháp luật cần xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan Nhà nước, đảm bảo cơ sở thực hiện
tốt chức năng của Nhà nước, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước, thị
trường và xã hội. Hoàn thiện pháp luật về các thiết chế xã hội và truyền thông
báo chí nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền con người của các thiết chế xã hội.
Hoàn thiện pháp luật gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp
luật, bảo đảm trên thực tế quyền con người.
Kết luận
Từ vai trò quan trọng của pháp
luật về quyền con người trong Nhà nước pháp quyền XHCN, xây dựng hoàn thiện
pháp luật về quyền con người ở Việt Nam hiện nay là một vấn đề rất cần thiết và
phức tạp. Xây dựng, hoàn thiện pháp luật về quyền con người do nhiều chủ thể
thực hiện, phải được tiến hành đồng bộ. Chính vì vậy cần phát huy được sức mạnh
tổng hợp của toàn xã hội, huy động đông đảo nhân dân tham gia, trong đó sự lãnh
đạo của Đảng là nhân tố quyết định; Nhà nước đóng vai trò nòng cốt trong thể
chế hóa và tổ chức thực hiện. Thực hiện đồng bộ một số giải pháp nêu trên sẽ
góp phần hoàn thiện pháp luật về quyền con người, đảm bảo cơ sở pháp lý cho bảo
vệ và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam hiện nay.