Đặt vấn
đề
Tự
phê bình và phê bình không chỉ là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng mà
còn là một trong những nội dung của nguyên tắc hoạt động của Đảng, Điều lệ Đảng
ghi rõ: “Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và
hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản,... đồng thời
thực hiện các nguyên tắc: tự phê bình và phê bình, đoàn kết trên cơ sở Cương
lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng, gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”[1, tr.5]. Vì vậy, cần bảo đảm tính chất
của phê bình trong Đảng, hướng đến “Mục đích
phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa đổi cách làm
việc cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ”[3, tr.272] như Chủ
tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn.
Nội dung
Trong
phê bình cần phải căn cứ vào công việc để phê bình giúp cho công việc tốt hơn, không lợi dụng phê bình để xúc phạm, hạ thấp danh dự, uy tín, nhân phẩm của
đồng chí mình. Bên cạnh đó, mỗi đảng viên khi phê bình đồng chí của mình cần
phải bảo đảm bốn tính chất của phê bình trong Đảng, cụ thể như sau:
Thứ nhất, bảo đảm tính đảng trong phê
bình
Theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh thì tính đảng rất quan trọng: “Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên,
cần phải có tính đảng mới làm được việc. Kém tính đảng, thì việc gì cũng không
làm nên”[3, tr.307],
tính đảng được thể hiện ở ba nội dung: “Một
là: Phải đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên hết. Hai là: Việc gì cũng phải điều tra rõ
ràng, cẩn thận và phải làm đến nơi đến chốn… Ba
là: Lý luận và thực hành phải luôn luôn đi đôi với nhau”[3, tr.307]. Tính
đảng trong phê bình trước hết cần bảo đảm trên cơ sở Cương lĩnh chính trị, Điều
lệ Đảng, quy định của Đảng; trên cơ sở các quy định, quy chế của cơ quan, đơn
vị để chỉ ra những việc đã làm được, những việc còn tồn đọng, hạn chế, khuyết điểm
của đồng chí mình, từ đó mỗi đảng viên sẽ đưa ra những góp ý với đồng chí bảo
đảm nghiêm túc, trách nhiệm và xây dựng. Tránh phê bình một cách
chung chung không có căn cứ để chỉ rõ ưu điểm, hạn chế. Tính đảng trong phê
bình còn được thể hiện thông qua bản lĩnh, tính chiến đấu không chỉ của người
đi phê bình mà còn thể hiện ở cách tiếp nhận và ứng xử với hạn chế, khuyết điểm
của người được phê bình. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì: “Những người bị phê
bình thì phải vui lòng nhận xét để sửa đổi, không nên vì bị phê bình mà nản
chí, hoặc oán ghét”[3,
tr.272], Người còn cho rằng: “Nếu không kiên quyết sửa chữa
khuyết điểm của ta, thì cũng như giấu giếm tật bệnh trong mình, không dám uống
thuốc, để bệnh ngày càng nặng thêm, nguy đến tính mệnh”[3, tr.273].
Phê bình trong Đảng là
phê bình việc làm, chứ không phải phê bình người, căn cứ vào công việc để phê
bình giúp cho công việc tốt hơn. Không lợi dụng phê bình để xúc phạm, hạ thấp
danh dự, uy tín, nhân phẩm của đồng chí mình. Tính đảng không chỉ dừng lại ở
việc phân biệt được đúng, sai trong thực hiện nhiệm vụ, mà quan trọng hơn là
thái độ ứng xử của đảng viên trước những việc làm mà đồng chí của mình được phụ
trách. Để phê bình đồng chí của mình đạt được mục đích trên, mỗi đảng viên cần
phải hiểu bản chất của hoạt động này, trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, khi nói về cách phê bình, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “phê bình mình cũng như phê
bình người phải ráo riết, triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt.
Phải vạch rõ cả ưu điểm và khuyết điểm. Đồng thời, chớ dùng những lời mỉa mai,
chua cay, đâm thọc. Phê bình việc làm, chứ không phải phê bình người”[3, tr.272]. Phê bình
phải bảo đảm chỉ rõ cả ưu điểm và khuyết điểm của đồng chí mình, tránh phiến
diện một chiều chỉ nhìn thấy ưu điểm hoặc chỉ nhìn thấy hạn chế của người được
phê bình. Khi phê bình việc làm thì cần phải căn cứ trên cơ sở các quy định,
quy chế, trên cơ sở những việc làm cụ thể để góp ý cùng tiến bộ, cùng xây dựng
một tổ chức đoàn kết hơn, vững mạnh hơn.
Tính
đảng trong phê bình yêu cầu mỗi đảng viên phải có thái độ rõ ràng, dứt khoát,
dám bảo vệ cái đúng, việc làm tốt và đấu tranh kiên quyết với cái sai, không
bàng quan, mũ ni che tai trước khuyết điểm của đồng chí mình. Tính đảng trong
phê bình còn thể hiện ở việc đấu tranh không khoan nhượng với tư tưởng và hành
động sai trái, không thoả hiệp, xuôi chiều với những việc làm sai trái.
Thứ hai, bảo đảm tính giáo dục trong phê
bình
Tự phê bình và phê bình
không chỉ là một nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, mà nó còn là quy
luật phát triển Đảng vững mạnh hơn trên cơ sở nội bộ Đảng không ngừng tự phê
bình, tự hoàn thiện, Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: “Về luật phát triển, Đảng Lao động Việt Nam dùng lối phê bình và tự
phê bình để giáo dục đảng viên, giáo dục quần chúng”[5, tr.41]. Trong mỗi tổ chức đảng, đội ngũ
đảng viên không ngừng phê bình, góp ý nhau để bảo đảm mục đích giúp nhau sửa
chữa, giúp nhau tiến bộ. Để bảo đảm phê bình đạt được mục đích thì mỗi đảng
viên khi thực hiện phê bình trong Đảng cần phải bảo đảm được tính giáo dục
không chỉ đối với bản thân cá nhân đảng viên được góp ý, phê bình mà còn thông
qua việc phê bình đồng chí mình để giúp cho các đồng chí đảng viên còn lại
trong tổ chức đảng lấy đó làm tấm gương, những ưu điểm thì học tập, phát huy,
những hạn chế, khuyết điểm thì rút kinh nghiệm, tránh mắc phải trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ của bản thân mình, đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy:
“Thực hành tự phê bình và phê bình đồng sự mình. Phê bình một cách thiết thực
mà thân ái. Phê bình từ cấp trên xuống và từ cấp dưới lên. Phê bình nhau và
giúp nhau sửa chữa”[3,
tr.624].
Thông
qua phê bình, đội ngũ đảng viên giúp nhau rèn luyện, nâng cao năng lực, phẩm
chất, đạo đức, lối sống, phong cách, phương pháp làm việc khoa học, bảo đảm
chất lượng hiệu quả cao. Phát hiện những việc làm tốt để nhân rộng; việc làm
chưa tốt để sửa chữa và rút ra bài học. Bảo đảm mục đích củng cố đảng, tăng
cường đoàn kết nội bộ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Trong
những năm gần đây, một bộ phận không nhỏ đảng viên suy thoái về đạo đức, lối
sống, làm giảm uy tín của Đảng, nguy hại cho sự nghiệp cách mạng; một số người
vào Đảng với mục đích, động cơ chưa đúng. Để khắc phục những thiếu sót đó,
không thể nhất loạt sử dụng biện pháp tổ chức, hành chính và pháp luật, mà phải
sử dụng phương pháp giáo dục, thuyết phục, trong đó phải coi trọng việc phê
bình. Thông qua phê bình, đảng viên được rèn luyện, trưởng thành, đảng viên có
khuyết điểm do hạn chế về năng lực công tác thì bồi dưỡng rèn luyện năng lực
công tác; những đảng viên đã thoái hóa biến chất, chạy theo chủ nghĩa cá nhân,
tham nhũng thì phải xử lý nghiêm minh. Muốn xây dựng đội ngũ đảng viên vững
mạnh thì không thể không có giáo dục, phê bình trong Đảng là một trong những
phương thức giáo dục thiết thực, hiệu quả nhất giúp cho đảng viên ngày càng
hoàn thiện hơn.
Thứ ba, bảo đảm tính khách quan, trung
thực, chân thành và công khai trong phê bình
Phê
bình trong Đảng phải bảo đảm khách quan, trung thực, tôn trọng sự thật, có sao
nói vậy, không thêm bớt, tô hồng hay bôi đen. Khi phê bình đồng chí mình, mỗi
đảng viên cần phải đặt mình vào trong vị trí của người đó mà suy xét, góp ý để
bảo đảm tính khách quan, không nặng nề, chụp mũ hoặc yêu cầu quá cao so với
năng lực của đồng chí mình, như Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng phê bình người
khác thì dễ hơn là trực tiếp làm việc: “Tôi vẫn biết phê bình là dễ, làm ra là
khó. Thí dụ, tôi trông một bức tranh, thì tôi biết khen khéo chê vụng; tôi nghe
một khúc đàn thì tôi biết khen hay chê dở; nhưng mà nếu anh bảo tôi cầm bút mà
vẽ, cầm đàn mà gảy, thì tôi chạy!”[2, tr.169]. Tránh để vị trí và tuổi tác làm mất đi tính
khách quan trong nhận xét về ưu điểm, khuyết điểm của đồng chí mình, không vội
vàng quy kết, không quan trọng hóa nhưng cũng không xem nhẹ khuyết điểm. Để đạt
bảo đảm khách quan, chung thực thì ở mỗi một tổ chức, người đứng đầu cần có sự
công tâm khách quan, phát huy dân chủ, tạo lập một môi trường làm việc dân chủ
thực sự, để không những cấp trên phê bình cấp dưới mà ngược lại, cấp dưới cũng
có thể góp ý, phê bình đối với cấp trên, nhất là người đứng đầu một cách thẳng
thắn, chân thành, tránh tình trạng không dám nói, không dám phê bình đối với
cấp trên, như Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra: “Nếu ai nói chúng ta không dân chủ,
thì chúng ta khó chịu. Nhưng nếu chúng ta tự xét cho kỹ, thì thật có như thế.
Đối với cơ quan lãnh đạo, đối với những người lãnh đạo, các đảng viên và các
cán bộ dù có ý kiến cũng không dám nói,
dù muốn phê bình cũng sợ, không dám phê bình”[3, tr.283].
Phê
bình với thái độ thẳng thắn nhưng chân thành, hướng đến mục tiêu để đồng chí
mình nhận ra ưu điểm để phát huy, nhận ra khuyết điểm để sửa chữa, chớ dùng
những lời lẽ mỉa mai, chua cay, đâm thọc nhằm nói xấu, hạ uy
tín của đồng chí mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh
chỉ rõ: “Ta phải biết cách phê bình
sáng suốt, khôn khéo, như chiếu tấm gương cho mọi người soi thấu những khuyết
điểm của mình, để tự mình sửa chữa”[3, tr.284], “Vì vậy, phê bình mình cũng
như phê bình người phải ráo riết, triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm
bớt. Phải vạch rõ cả ưu điểm và khuyết điểm. Đồng thời, chớ dùng những lời mỉa
mai, chua cay, đâm thọc”[3,
tr.272]. Trên cơ sở chí tình, chân thành khi phê bình sẽ giúp
đồng chí mình dễ tiếp thu và sửa chữa khuyết điểm hơn. Mỗi đảng viên cần phải
xoá bỏ tư tưởng ngại phê bình vì mục đích của phê bình là rất
tốt đẹp và vai trò của phê bình có tác dụng rất to lớn, bởi lẽ nếu không phê
bình thì cũng như: “Thấy cái xấu của người mà không phê bình là một khuyết điểm
rất to. Không phê bình, tức là để cho cái xấu của người ta phát triển”[3, tr.260], như vậy
là làm hại đồng chí mình, không muốn đồng chí của mình tốt hơn, hoàn thiện hơn.
Tính
công khai trong phê bình không chỉ góp phần bảo đảm mục đích mà nó còn thể hiện
ý chí quyết tâm tự sửa chữa và giúp đồng chí mình sửa chữa khuyết điểm. Cũng
trên cơ sở tính công khai trong phê bình mà mỗi đảng viên có thể thấy được ưu
điểm, hạn chế không chỉ của bản thân mình mà còn thấy được ưu điểm, hạn chế của
các đồng chí của mình để bản thân mình tự điều chỉnh, tự tu dưỡng, rèn luyện
phát huy ưu điểm, làm theo những việc làm tốt, tránh những việc làm chưa tốt,
chưa hay, tránh tình trạng bao che khuyết điểm, giấu tổ chức, chạy theo bệnh
thành tích như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng chỉ ra: “Có nơi, các đồng chí chẳng
những không phê bình giúp nhau sửa đổi, mà lại che đậy cho nhau, tha thứ cho
nhau, giấu cả đoàn thể. Thành thử càng ngày càng hủ hoá, càng hỏng việc”[3, tr.95]. Đó là
những việc làm đáng lên án, phê bình trong chính phương pháp, cách tổ chức thực
hiện phê bình để bảo đảm chất lượng, hiệu quả hơn, góp phần bảo đảm mục đích
của phê bình tốt hơn.
Thứ tư, bảo đảm tính cụ thể, thiết thực
và kịp thời trong phê bình
Phê bình chỉ thực sự có
ý nghĩa khi nó bảo đảm tính cụ thể, thiết thực và kịp thời, việc góp ý phải rất
cụ thể, đúng hoặc sai phải rõ ràng và có nguyên nhân, hoàn cảnh xác định. Tránh
việc phê bình một cách chung chung, không cụ thể, rõ ràng, thấy đồng chí mình
có khuyết điểm nhưng ngại va chạm, chỉ nói xa xôi, bóng gió thì người được phê
bình khó tiếp thu và sửa chữa khuyết điểm. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Phê bình là cốt giúp nhau sửa chữa khuyết điểm,
cho nên thái độ của người phê bình phải thành khẩn, nghiêm trang, đúng mực.
Phải vạch rõ vì sao có khuyết điểm ấy, nó sẽ có kết quả xấu thế nào, dùng
phương pháp gì để sửa chữa. Thuốc phải nhằm đúng bệnh. Tuyệt đối không nên có ý
mỉa mai, bới móc, báo thù. Không nên phê bình lấy lệ. Càng không nên “trước mặt
không nói, xoi mói sau lưng”[5,
tr.114]. Khi tiến hành phê bình phải quán triệt mục đích của phê
bình là để giúp đỡ đồng chí mình tiến bộ, cùng phát triển và tổ chức đoàn kết,
vững mạnh hơn. Trong phê bình cần phải có thái độ phê bình đúng đắn, nêu rõ
khuyết điểm, nguyên nhân và hướng khắc phục, tránh “đao to búa lớn, nâng quan
điểm”, “dậu đổ bìm leo” hoặc coi nhẹ phê bình trong Đảng. Tính cụ thể, thiết
thực của phê bình trong Đảng còn thể hiện ở việc hướng thẳng nội dung phê bình
vào công việc cụ thể, vào việc tổ chức và thực hiện nhiệm vụ chính trị của đảng
viên để mà góp ý, Người cho rằng: “Phê bình
phải nghiêm chỉnh, chắc chắn, phụ trách, nói có sách mách có chứng. Phải phê
bình với tinh thần thành khẩn, xây dựng, “trị bệnh cứu người”. Chớ phê bình
lung tung không chịu trách nhiệm”[6,
tr.464].
Để
phê bình thiết thực, phải bảo đảm tính kịp thời, nếu không khuyết điểm sẽ ngày
càng trầm trọng và tác hại sẽ ngày càng nhiều. Phê bình kịp thời sẽ giúp cán
bộ, đảng viên và tổ chức đảng sửa chữa khuyết điểm của mình từ lúc manh nha và
tránh cho người khác, đơn vị khác không mắc phải khuyết điểm tương tự, chủ động
đẩy lùi được tác hại của khuyết điểm đó làm ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm
vụ chung. Chủ tịch Hồ Chí Minh ví phê bình như “trị bệnh cứu người”[6, tr.464] để các
đảng viên thấy được sự kịp thời là rất quan trọng trong phê bình. Kịp thời
trong phát hiện ra khuyết điểm, hạn chế; kịp thời trong góp ý, nhận xét đồng
chí của mình; kịp thời trong việc đề xuất, gợi ý những giải pháp để đồng chí
mình nhận thấy khuyết điểm, nguyên nhân từ đâu và giải pháp khắc phục.
Tính kịp thời còn thể
hiện ở việc tổ chức đảng và đảng viên phải thường xuyên “Phê bình và tự phê
bình phải thường xuyên, thiết thực, dân chủ, từ trên xuống và từ dưới lên”[5, tr.34]. Phê bình
không phải tích tụ lại đến cuối năm khi đánh giá, phân loại đảng viên, hay theo
từng đợt sinh hoạt chính trị do Trung ương tổ chức, mà phê bình còn là một hoạt
động được tiến hành thường xuyên, liên tục trong các buổi sinh hoạt chi bộ hằng
tháng, đối với mỗi một nhiệm vụ chính trị được giao, giúp cho đảng viên ngày
càng hoàn thiện hơn. Khi phê bình không phải chỉ có chỉ ra hạn chế, khuyết điểm
mà còn phải chỉ rõ ưu điểm để phát huy, những việc làm tốt, hay để nhân rộng,
Người ví: “Phê bình và tự phê bình như uống thuốc xổ. Xổ rồi thì phải uống
thuốc bổ. Tháo xe đạp ra chùi cho sạch bụi, lúc lắp vào phải cho dầu mỡ, xe mới
chạy được. Phê bình xong phải biết cách sửa chữa. Nếu phê bình rồi mà không
biết cách sửa chữa là một khuyết điểm to”[5, tr.221].
Kết luận
Như vậy, việc
chấp hành nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong Đảng nói chung, việc tổ
chức, triển khai thực hiện phê bình trong Đảng nói riêng của các tổ chức đảng,
đảng viên, nhất là người đứng đầu cần phải hiểu rõ về mục đích của phê bình
trong Đảng, phải tổ chức triển khai phê bình trong Đảng bảo đảm bốn tính chất
đó là: Một là, tính đảng; hai là, tính giáo dục; ba là, tính khách quan, trung thực, chân
thành và công khai; bốn là, tính
cụ thể, thiết thực và kịp thời. Có như vậy, nguyên tắc tự phê bình và phê bình
trong Đảng mới phát huy hết được hiệu quả, tránh hình thức. Thực hiện tốt phê
bình trong Đảng sẽ góp phần làm rõ đúng, sai trong mỗi hoạt động của đảng viên,
giúp cho đảng viên thấy rõ ưu điểm mà phát huy, hạn chế, khuyết điểm mà sửa
chữa, khắc phục; góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên bảo đảm mục
đích của phê bình.
Tài liệu tham khảo:
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Điều lệ Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự
thật, Hà Nội.
[2] Hồ Chí Minh (2011), Toàn
tập, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
[3] Hồ Chí Minh (2011), Toàn
tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
[4] Hồ Chí Minh (2011), Toàn
tập, tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
[5] Hồ Chí Minh (2011), Toàn
tập, tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
[6] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 13, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.