Thứ Tư, ngày 30/08/2023, 16:31

QUAN ĐIỂM ĐỔI MỚI TƯ DUY VÀ PHƯƠNG PHÁP LÃNH ĐẠO TRONG TÁC PHẨM “ĐỜI SỐNG MỚI” CỦA HỒ CHÍ MINH - Ý NGHĨA TRONG RÈN LUYỆN CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ HIỆN NAY

Lê Quang Hiển
Học viện Chính trị khu vực I.

(GDLL) - Tác phẩm “Đời sống mới” ra đời trong hoàn cảnh đất nước còn đang rất khó khăn, cần có sự đổi mới để nâng cao đời sống nhân dân, góp phần đưa công cuộc kháng chiến, kiến quốc đi đến thắng lợi. Bài viết tập trung phân tích quan điểm đổi mới tư duy và phương pháp lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm “Đời sống mới”, từ đó làm rõ ý nghĩa của tác phẩm đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay.

Đặt vấn đề

Cách mạng tháng Tám thành công mở ra một kỷ nguyên mới của dân tộc - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Để xây dựng văn hóa, con người mới phục vụ kháng chiến kiến quốc, Đảng cần lãnh đạo quần chúng nhân dân tiến hành đổi mới để xóa bỏ những tàn dư, lạc hậu của xã hội phong kiến, tạo ra những giá trị văn hóa mới phù hợp với thực tiễn. Tác phẩm “Đời sống mới” của chủ tịch Hồ Chí Minh ra đời nhằm cổ vũ, động viên, khích lệ cho tinh thần, phong trào thay đổi đó. Nghiên cứu quan điểm đổi mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm “Đời sống mới” có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc trong tiến trình đổi mới hiện nay.

1. Quan điểm đổi mới tư duy và phương pháp lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm “Đời sống mới”

Sau cách mạng Tháng Tám thắng lợi, vận mệnh đất nước ở vào tình thế ngàn cân treo sợi tóc khi vừa phải đối mặt với các thế lực thù địch chống phá quyết liệt vừa phải đối mặt với giặc đói, giặc dốt, những hủ tục lạc hậu và nền tài chính kiệt quệ... Cùng với việc kháng chiến kiến quốc, Đảng chủ trương xây dựng đời sống mới nhằm xóa bỏ những tàn dư, lạc hậu mà chế độ cũ để lại, giúp nhân dân nhận thức được về tính ưu việt của chế độ mới và trách nhiệm và quyền làm chủ của mình đối với xã hội, với đất nước. Tác phẩm “Đời sống mới” được Người viết trong hoàn cảnh đó với bút danh Tân Sinh.

Đổi mới, theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đó là mối quan hệ giữa cái cũ và cái mới, giữa kế thừa và phát huy, giữa đổi mới và phát triển, giữa truyền thống và hiện đại. Đổi mới không phải là xóa bỏ hoàn toàn cái cũ, xây dựng cái mới mà là quá trình chọn lọc, kế thừa, cải tiến và đổi mới. Người lãnh đạo phải nhìn nhận được xu hướng phát triển, hình dung về tổ chức của mình trong tương lai, từ đó chọn lọc ra những giá trị “cũ và mới”. Trong đó “cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ”, có sự kế thừa và cải tiến “Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý”, “Cái gì cũ mà tốt, thì phải phát triển thêm và có sự đổi mới”, “Cái gì mới mà hay, thì ta phải làm”[1, tr.112].

Người cũng nhận định rằng con người không dễ dàng, không thích sự thay đổi. Người nhận xét “ta có tính lười thay đổi”, khi thay đổi ta lại phải mất công học lại những kiến thức mới, kỹ năng mới, mà để làm quen với một cái mới“...bất kỳ việc gì, bước đầu cũng khó”[1, tr.125]. Vì vậy, tâm lý chung của con người ta là “thà chịu khát chứ không muốn đào giếng”[1, tr.125], tức là thích nhàn, yên thân, lười thay đổi. Hơn nữa, “thói quen xấu rất khó đổi” nhất là những thói quen đã hình thành từ rất lâu, con người lại dễ thích nghi, “Cái xấu mà quen người ta cho là thường”[1, tr.125], cho nên “Cái tốt mà lạ, người ta có thể cho là xấu”[1, tr.125]. Vì vậy, việc thay đổi “Nói dễ thì dễ. Nói khó thì khó”[1, tr.124], bởi vì “Việc đời không gì khó, chỉ sợ chí không bền”[1, tr.124], cần phải bền chí bền gan thì thay đổi mới thành công.

Bác cũng nhấn mạnh vai trò của từng cá nhân đối với sự thay đổi. “Người là gốc của làng nước”[1, tr.117], mỗi người cần ý thức được rằng mình chính là hạt nhân, là nhân tố quyết định của sự đổi mới, đồng thời cũng là đối tượng được hưởng lợi ích từ sự đổi mới đó. Để việc thay đổi ở mỗi người trở nên hăng hái, bản thân mỗi người cần yêu tổ chức của mình, “việc gì có lợi cho tổ chức phải ra sức làm, việc gì hại cho tổ chức thì ra sức tránh”. Luôn có thái độ sẵn lòng công ích, bất kỳ việc to việc nhỏ, có ích chung thì phải hăng hái làm, không kiêu căng, nịnh hót, sống giản dị, tiết kiệm, làm việc siêng năng, có tinh thần phụ trách, đã làm việc gì thì làm cho kỳ được, làm đến nơi đến chốn, không làm chống đối. Cư xử thành thực, thân ái, sẵn lòng giúp đỡ, ham học hỏi. Đó cũng là những tinh thần mà người lãnh đạo cần truyền tới cấp dưới của mình để cấp dưới hiểu vai trò, ý nghĩa của mình, từ đó chủ động thực hiện tốt nhiệm vụ cá nhân, nhiệm vụ của tổ chức.

Bác cũng căn dặn cán bộ lãnh đạo: cán bộ phải là người trong sạch, công bình, thạo việc để có thể làm “gương cho dân làng; có thể hy sinh lợi ích riêng cho lợi ích chung”[1, tr.119-120], “Nêu cao và thực hành Cần, Kiệm, Liêm, Chính tức là nhen lửa cho đời sống mới”[1, tr.128]. Người cán bộ cần phải hăng hái tuyên truyền cổ động và định kế hoạch cho thích hợp với tổ chức, đơn vị của mình, nhất là phải cố gắng làm kiểu mẫu. Nếu người người quyết tâm làm, đơn vị quyết tâm làm, người cán bộ và nhân viên đều đồng lòng thì nhất định sự đổi mới sẽ thành công, nhất định tổ chức sẽ phát triển “Chúng ta đồng tâm mà làm, quyết tâm mà làm thì đời sống mới nhất định thực hiện được”[1, tr.128]. Việc đổi mới không phải là điều dễ dàng, vì vậy, Người cũng căn dặn mỗi người, mỗi đơn vị, mỗi cán bộ phải bền chí, bền gan, dám nghĩ dám làm, nếu không chịu làm thì không thể thành công được, “Việc dễ mấy nhưng không quyết chí bền gan thì cũng không bao giờ làm được”[1, tr.125].

Để đổi mới trở nên hiệu quả, Người cũng hướng dẫn cán bộ các bước, các biện pháp rất cụ thể:

Một là, tuyên truyền, giải thích: mục tiêu của tuyên truyền là phải cho mọi người hiểu ý nghĩa, lợi ích của việc thay đổi. Cách thực hành như thế nào: “Nói một lần họ chưa hiểu thì nói nhiều lần. Nói đi, nói lại, bao giờ người ta hiểu, người ta làm mới thôi”[1, tr.125]. Cách thức tuyên truyền: “Nói thì phải nói một cách giản đơn, thiết thực với hoàn cảnh mỗi người; nói sao cho người ta nghe rồi làm được ngay. Việc dễ, việc nhỏ làm được rồi, sẽ nói đến việc to, việc khó”[1, tr.126]. Để tuyên truyền hiệu quả, người lãnh đạo cần phải hiểu rõ tổ chức của mình, cần hình dung sự đổi mới sẽ được thực hiện như thế nào trong từng cá nhân, từng bộ phận, giống như cách mà Bác chỉ dẫn thực hành “Đời sống mới” một cách cụ thể cho từng đối tượng là trẻ em, người lớn, ông chủ, người làm công, bộ đội, việc nhà, việc làng, trường học, công sở... Từ đó, có những biện pháp tuyên truyền hướng dẫn cụ thể, dễ hiểu, tránh mơ hồ, chung chung. 

Người lãnh đạo cần phải tạo ra được những thành công bước đầu của sự đổi mới. Khi sự đổi mới đạt được thành công bước đầu ở một số bộ phận, cần lan tỏa điều tốt đó tới khắp tổ chức, từ đó tạo ra sự đồng thuận trong tổ chức. Sự đổi mới phải làm đồng bộ, kịp thời, nếu một vài người chịu thay đổi mà đa số không thay đổi thì sự đổi mới sẽ không hiệu quả. Người lãnh đạo phải có tinh thần giúp đỡ cán bộ thay đổi, người tiến bộ có tinh thần giúp đỡ người chậm tiến thay đổi. Như vậy, sự đổi mới mới diễn ra hiệu quả.

Hai là, nêu gương: cách tuyên truyền tốt nhất là nêu gương, tức là miệng nói, tay làm, làm gương cho người khác bắt chước. Sự đổi mới cần có những người làm gương, những đơn vị làm gương, những lãnh đạo làm gương. Khi thấy hiệu quả tốt tươi thì những người, những đơn vị khác sẽ hăng hái làm theo. Nếu tuyên truyền mà không làm gương thì “tuyên truyền một trăm năm cũng vô ích”[1, tr.126]. Bác cũng căn dặn: “Lúc số đông quốc dân chưa hiểu, chưa làm đời sống mới, thì tuyệt đối không nên bắt buộc”[1, tr.126]. Nếu nóng vội, thúc ép, bắt buộc, sẽ bị gây phản ứng ngược, người ta tức giận, oán ghét, “chứ không ích gì”[1, tr.127]. Bởi những cái cũ đã tồn tại lâu đời, không phải một ngày một bữa mà bỏ được. Phải hiểu rằng tuyên truyền thì phải dần dần nói cho người ta hiểu, để người ta vui lòng làm, chứ không có quyền ép người ta. “Tuyên truyền đời sống mới cũng như tuyên truyền việc khác, phải hăng hái, bền gan, chịu khó, đồng thời phải cẩn thận, khôn khéo, mềm mỏng”[1. tr.127].

Ba là, tổ chức phong trào thi đua: một cách tốt nhất là tổ chức phong trào thi đua, người này thi đua với người khác, đơn vị này thi đua với đơn vị khác... Ai hơn, có thành tựu sẽ được mọi người yêu quý, kính trọng, và khen thưởng. Như vậy ai cũng hăng hái

“Người người thi đua

Ngành ngành thi đua

Ta nhất định thắng

Địch nhất định thua”[2. tr.23].

Bốn là, bắt buộc: đến khi đại đa số mọi người đã theo đời sống mới, chỉ còn số rất ít không theo, khuyên mãi cũng không được, lúc đó có thể dùng cách cưỡng bức, bắt họ phải theo.

2. Ý nghĩa của tác phẩm “Đời sống mới” đối với rèn luyện cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay

Trong thời đại ngày nay với sự bùng nổ của khoa học công nghệ cùng với sự phát triển toàn cầu hóa đã thúc đẩy sự đổi mới nhanh và mạnh mẽ hơn bao giờ hết.

Sự đổi mới là nhu cầu tất yếu khách quan, là yếu tố không thể tách rời đối với tổ chức và người lãnh đạo, quản lý. Đứng trước những cơ hội thách thức đó, những chỉ dẫn quý báu của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đổi mới trong tác phẩm “Đời sống mới” có ý nghĩa sâu sắc và kinh nghiệm quan trọng với cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay:

Một là, người lãnh đạo, quản lý luôn phải có tầm nhìn về sự đổi mới

Là người đứng đầu tổ chức, người lãnh đạo, quản lý luôn cần nhìn nhận rõ sự thay đổi của các yếu tố bên ngoài (kinh tế, chính sách pháp luật, xã hội, công nghệ...), và các yếu tố nội bộ (như nhân sự, tài chính, cơ sở vật chất, thông tin...), nhận định các xu hướng phát triển, những nguy cơ hoặc cơ hội mà các yếu tố đó có thể ảnh hưởng tới tổ chức, để từ đó xây dựng tầm nhìn của tổ chức, đồng thời cụ thể hóa tầm nhìn đó thành các chiến lược dài hạn, kế hoạch ngắn hạn.

Khi người lãnh đạo, quản lý có tầm nhìn dài hạn về sự đổi mới, người lãnh đạo, quản lý sẽ chủ động tạo ra những thay đổi ngắn hạn và dài hạn trong tổ chức. Những thay đổi trong ngắn hạn sẽ phục vụ cho những thay đổi trong dài hạn, những thành công ngắn hạn sẽ cổ vũ cá nhân, tổ chức thay đổi theo đúng định hướng đề ra. Điều này sẽ giúp những thay đổi trong tổ chức sẽ diễn ra một cách tự nhiên và dễ dàng hơn, đồng thời, sẽ xóa bỏ tâm lý không thích thay đổi, ngại thay đổi của con người. Việc thay đổi theo lộ trình như này cũng sẽ giúp tổ chức có thời gian để chọn lọc và kế thừa những giá trị tiến bộ của tổ chức, cải tiến những giá trị cũ và xóa bỏ những giá trị không còn phù hợp một cách tự nhiên trong tổ chức.

Đổi mới phải xuất phát từ yêu cầu thực tiễn khách quan, vì lợi ích, vì sự phát triển của tổ chức. Đối với tổ chức công, sự đổi mới của tổ chức còn vì sự phát triển của đất nước, của sự phát triển của tiến bộ xã hội, phục vụ nhu cầu ngày càng cao của đời sống nhân dân, vì vậy người lãnh đạo, quản lý cần công tâm, khách quan, tránh việc tư lợi cá nhân, lợi ích nhóm trong quá trình đổi mới. 

Hai là, luôn phát huy tính dân chủ trong tổ chức

Khi người lãnh đạo, quản lý có kế hoạch làm bất cứ điều gì, dù là kế hoạch dài hạn, trung hạn hay ngắn hạn đều phải phát huy tính dân chủ. Việc bàn bạc, thảo luận, cùng với các đơn vị, các cá nhân trong tổ chức sẽ giúp kế hoạch trở nên thiết thực, cụ thể và đi sát thực tiễn, đồng thời chuyển hóa kế hoạch lớn thành các kế hoạch nhỏ phù hợp với lợi ích của cá nhân, vừa đưa lợi ích của cá nhân phục vụ lợi ích của tập thể. Dân chủ cũng giúp mọi người trong tổ chức có cái nhìn tích cực về sự đổi mới, đồng thời xác định được vị trí, vai trò của mình trong sự đổi mới đó.

Người lãnh đạo, quản lý cần cũng cần có kế hoạch, yêu cầu, hướng dẫn sự đổi mới một cách cụ thể cho từng đối tượng, cá nhân, xác định rõ ai, làm gì, làm như thế nào, yêu cầu kết quả đạt được ra sao. Việc mô tả, diễn giải công việc càng chi tiết, càng dễ hiểu, dễ hình dung, gắn với công việc cụ thể từng người, từng cơ quan, đơn vị và có thể thực hiện được ngay thì việc triển khai càng nhanh chóng và đạt được mục tiêu đề ra. Và cuối cùng, khi sự đổi mới thành công, những kết quả đạt được từ sự đổi mới sẽ là những lợi ích mà tất cả cá nhân, tập thể trong tổ chức đều được hưởng.

Ba là, kết hợp chặt chẽ giữa tuyên truyền và nêu gương

Tuyên truyền: trong việc tổ chức thực hiện sự đổi mới cần chú trọng đến biện pháp tuyên truyền, động viên, thuyết phục, làm sao để mọi người, mọi bộ phận trong tổ chức phải biết, phải hiểu phải tin vào cái mới thì mới có thể triển khai đồng bộ sự đổi mới bên trong tổ chức. Trong công tác tuyên truyền “không thể chỉ dùng báo chương, sách vở, mít tinh, khẩu hiệu, truyền đơn, chỉ thị mà đủ”[2, tr.232] mà “Trước nhất là phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi một người dân hiểu rõ ràng: Việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được”[2, tr.233].

Hiểu được tâm lý ngại thay đổi, không thích thay đổi nên người lãnh đạo, quản lý phải thực hiện tuyên truyền thường xuyên, liên tục, đơn giản, thiết thực, dưới mọi hình thức khác nhau để mọi cá nhân đều hiểu, khi hiểu rồi thì mọi người sẽ ý thức và vui lòng làm, khi làm mà thấy hiệu quả rồi thì tự giác mọi người sẽ nghe theo. Trong giai đoạn này không nên nóng vội, chủ quan mà thúc ép, bắt buộc mọi người phải thay đổi sẽ gây tâm lý tiêu cực, thù ghét, thậm chí chống lại sự đổi mới. 

Nêu gương: trong tổ chức thực hiện, người lãnh đạo, quản lý cần phải hành động, không chỉ tuyên truyền mà phải chú trọng vào việc làm, nhất là sự nêu gương. Từ những việc làm cụ thể của người lãnh đạo, quản lý sẽ toát lên tư tưởng của sự đổi mới và thúc đẩy mọi người làm theo, một tấm gương sáng còn quý hơn một trăm bài diễn văn. Nói phải đi đôi với làm, làm được thì lời nói mới có trọng lượng, mọi người mới nghe và làm theo. Trong quá trình tổ chức thực hiện, người lãnh đạo, quản lý cần phải theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích mọi người tích cực hoàn thành nhiệm vụ của mình, thậm chí trực tiếp hỗ trợ hoặc phân công những người tiến bộ giúp đỡ, giải quyết những khó khăn, vướng mắc của cá nhân trong quá trình thực hiện sự đổi mới. Vì vậy, người lãnh đạo, quản lý luôn cần phải “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm. Chứ không phải chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh”[2, tr233-234], “phải thật thà nhúng tay vào việc”[2, tr.234], sát sao, quan tâm, giúp đỡ mọi người trong công việc.

Khi sự đổi mới bắt đầu có hiệu quả, người lãnh đạo, quản lý cần phải xây dựng thành phong trào, được thực hành rộng rãi và có ảnh hưởng, sức lan tỏa mạnh mẽ tới từng người, từng bộ phận trong tổ chức, đồng thời, với những số ít người không chịu thay đổi, họ sẽ buộc phải tuân theo hoặc sẽ tự bị đào thải. Từ đó, những giá trị mới dần dần sẽ được hình thành trong tổ chức và chuyển hóa vào trong văn hóa tổ chức. 

Kết luận

Tác phẩm “Đời sống mới” là những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm xây dựng đời sống văn hóa tốt đẹp cho nhân dân, nhưng chứa đựng bên trong nó là những lý luận, giá trị khoa học về đổi mới. Những quan điểm này “...là lý luận được phát hiện và khái quát lên từ kinh nghiệm nhưng vượt qua kinh nghiệm và chủ nghĩa kinh nghiệm tiến tới lý luận, làm cho kinh nghiệm được lý luận hóa...[3, tr.7]. Đây cũng có thể được coi là cuốn cẩm nang dễ hiểu nhất cho lãnh đạo, quản lý trong việc dẫn dắt sự nghiệp đổi mới hiện nay.

Tài liệu tham khảo:

[1] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[2] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[3] Hoàng Chí Bảo, Tác phẩm “Đời sống mới” của Hồ Chí Minh và vấn đề xây dựng chủ trương, chính sách hợp lòng dân, Tạp chí Khoa học Đại học Văn Lang, số 04/2017.

Đọc thêm

Đảng Cộng sản Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân

Tác giả: Ngô Hảo Nhi

(GDLL) - Giữ vững bản chất giai cấp công nhân, kiên quyết đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, xuyên tạc về bản chất giai cấp công nhân là hai nhiệm vụ có mối quan hệ chặt chẽ, đặt ra thường xuyên trong công tác xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. Bài viết nhận diện các luận điệu sai trái, lệch lạc và đưa ra các luận cứ, luận chứng cùng thực tiễn nhằm đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, thù địch xuyên tạc về bản chất giai cấp công nhân trong giai đoạn hiện nay.

Vững bước đi theo Chủ nghĩa Mác-Lênin là sự lựa chọn đúng đắn, tất yếu của Đảng và Dân tộc Việt Nam

Tác giả: Nguyễn Thị Dung - Kiều Hưng

(GDLL) - Chủ nghĩa Mác - Lênin mãi luôn là thành tựu vĩ đại trong sự phát triển của tư duy và trí tuệ loài người về lý luận phát triển xã hội. Lý luận của học thuyết này được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng, phát triển sáng tạo vào điều kiện thực tiễn cách mạng, đưa dân tộc Việt Nam tiến lên hiện thực hóa khát vọng hùng cường. Bài viết khẳng định sự lựa chọn chủ nghĩa Mác - Lênin của Đảng và dân tộc Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn; đồng thời, phản bác các luận điệu sai trái, xuyên tạc, phủ nhận vai trò của chủ nghĩa Mác - Lênin trong sự nghiệp cách mạng của Việt Nam.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong Tác phẩm “Thường thức chính trị” vào xây dựng Đảng bộ Học viện Chính trị khu vực I hiện nay

Tác giả: Nguyễn Vĩnh Thanh

(GDLL) - Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng của Người về xây dựng Đảng được thể hiện trong nhiều bài nói, bài viết, trong số đó “Thường thức chính trị” là tác phẩm nổi bật trình bày về nội dung xây dựng Đảng. Bài viết phân tích nội dung xây dựng Đảng trong tác phẩm và nêu lên những định hướng vận dụng vào công tác xây dựng Đảng tại Đảng bộ Học viện Chính trị khu vực I ngày càng trong sạch, vững mạnh, tiếp nối truyền thống tự hào, vẻ vang 70 năm hình thành và phát triển.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, thống nhất trong Đảng - giá trị vận dụng trong công tác xây dựng Đảng hiện nay

Tác giả: Lê Tuấn Vinh - Nguyễn Thị Thanh Nhàn

(GDLL) - Bài viết khái quát những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, thống nhất trong Đảng, đánh giá khái quát việc thực hiện nội dung này trong công tác xây dựng Đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nêu lên những vấn đề đặt ra và một số giải pháp nhằm phát huy giá trị cốt lõi này trong công tác xây dựng Đảng thời gian tới.

Phát triển tổ chức cơ sở đảng với vai trò là hạt nhân chính trị ở cơ sở, là cầu nối giữa Đảng với Nhân dân

Tác giả: PGS.TS. Lê Văn Cường

(TG) - Khái niệm tổ chức cơ sở đảng được gọi chung cho tất cả Đảng bộ cơ sở và chi bộ cơ sở tùy thuộc vào số lượng đảng viên và yêu cầu nhiệm vụ cụ thể từng đơn vị cơ sở. Thời gian qua, nội dung phát triển tổ chức cơ sở đảng với vai trò là hạt nhân chính trị, cầu nối giữa Đảng với Nhân dân luôn được Đảng Cộng sản Việt Nam chú trọng: “Chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên cũng từng bước được nâng lên, trên cơ sở thực hiện nghiêm các quy định của Đảng, đặc biệt là Kết luận của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII về vấn đề này”(1).