Thứ Năm, ngày 31/08/2023, 14:54

KINH NGHIỆM XÂY DỰNG MÔ HÌNH CẤP XÃ ĐẠT CHUẨN TIẾP CẬN PHÁP LUẬT TẠI MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG - GIÁ TRỊ THAM KHẢO CHO TỈNH NAM ĐỊNH

Trần Thị Thanh Mai - Lại Sơn Tùng
Học viện Chính trị khu vực I.

(GDLL) - Xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật là một trong những tiêu chí thành phần của Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới. Với mục tiêu nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy chính quyền, tỉnh Nam Định cùng các địa phương khác đã và đang tích cực triển khai xây dựng bộ tiêu chí trên. Bài viết làm rõ thực tiễn xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật ở một số địa phương, qua đó gợi mở một số giá trị tham khảo cho tỉnh Nam Định trong việc nâng cao hiệu quả công tác xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật.

Đặt vấn đề

Xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật trong bối cảnh hiện nay không phải là một công việc hoàn toàn mới, mà là một đích đến xác định trong quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương cấp xã. Để nâng cao hiệu quả xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật ở Nam Định, việc nghiên cứu, tổng kết, học hỏi và rút kinh nghiệm từ quá trình thực hiện của các địa phương khác là rất cần thiết.

Tiếp cận pháp luật là một thuật ngữ mới xuất hiện trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới những năm gần đây. Từ góc độ ngôn ngữ, “tiếp cận pháp luật” có thể được hiểu khái quát là quá trình chủ thể pháp luật nghiên cứu, tìm hiểu những quy định của pháp luật cụ thể, giúp nhận thức được hành vi được làm, hành vi bị nghiêm cấm, hành vi không được làm...

Trên cơ sở đó, có thể hiểu “xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật” bao gồm nhiều hoạt động có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, do các chủ thể có thẩm quyền thực hiện theo quy định của pháp luật nhằm hình thành, nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và Nhân dân trong phạm vi đơn vị hành chính cấp xã trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 

1. Kinh nghiệm xây dựng mô hình cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật tại một số địa phương

1.1. Kinh nghiệm xây dựng mô hình cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật tại thành phố Hà Nội

Thứ nhất, triển khai kịp thời, nhanh chóng quy định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật

Là một trong những địa phương có số lượng cấp xã đứng đầu trong cả nước, tỷ lệ cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật của Hà Nội luôn ở mức cao, năm 2020 có 558/579 đơn vị cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật (đạt 96,37%); năm 2021 có 557/579 đơn vị cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật (đat 96,2%)[2, tr.29]. Để đạt được kết quả trên thì việc triển khai thực hiện Quyết định số 25/2021/QĐ-TTg được Sở Tư pháp tham mưu Ủy ban nhân dân từ rất sớm. Ngày 10/9/2021, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội ban hành Kế hoạch số 208/KH-UBND thực hiện Quyết định 25/2021/QĐ-TTg. Trong đó, xác định rõ nhiệm vụ, tiến độ thực hiện và phân công trách nhiệm cụ thể, phù hợp với vị trí, chức năng của từng cơ quan. Đây là tiền đề quan trọng giúp mỗi chủ thể có thẩm quyền chủ động, tích cực thực hiện các nhiệm vụ gắn với xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật.

Thứ hai, chú trọng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua phương tiện hiện đại

Bên cạnh các biện pháp phổ biến, giáo dục pháp luật truyền thống, chính quyền địa phương các cấp đã tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, khai thác triệt để các phần mềm trực tuyến, mạng xã hội, cổng/trang thông tin điện tử... Đồng thời, đẩy mạnh các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật trên các phương tiện thông tin đại chúng như chuyên mục, chương trình, phóng sự trên công/trang tin điện tử, Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội, Đài Truyền thanh cấp huyện, cấp xã Đặc biệt tuyên truyền qua thiết bị điện tử tại các tòa chung cư và màn hình LED (mô hình “Cầu thang pháp luật”) là hình thức mới rất hiệu quả, được nhiều địa phương, người dân đánh giá cao. Từ đó, bảo đảm pháp luật được phổ biến tới cán bộ, người dân để cùng nhau giám sát thực hiện, góp phần xây dựng Thủ đô “Văn hiến - Văn minh - Hiện đại”.

Thứ ba, đẩy mạnh công tác kiểm tra, hướng dẫn xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật

Công tác xây dựng xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật là một nhiệm vụ thường xuyên nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của cơ quan nhà nước tại cơ sở. Vì vậy, Sở Tư pháp, phòng Tư pháp đã tham mưu cho Ủy ban nhân dân cung cấp các giải pháp hỗ trợ địa bàn khó khăn, chưa đạt chuẩn tiếp cận pháp luật gắn với thực hiện nội dung và nhiệm vụ được giao trong Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Mặt khác, Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật đã phát huy vai trò trong công tác kiểm tra, hướng dẫn, kịp thời khắc phục những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong thực tiễn triển khai xây dựng xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật. Đồng thời, biểu dương nhân rộng điển hình để đội ngũ cán bộ, công chức và nhân dân trên địa bàn hiểu rõ mục đích, ý nghĩa, lợi ích của việc đánh giá, công nhận xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật. 

1.2. Kinh nghiệm xây dựng mô hình cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật tại tỉnh Tuyên Quang

Thứ nhất, phát huy vai trò của cơ quan chuyên môn làm đầu mối tham mưu, triển khai công tác xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật

Nhằm triển khai thi hành kịp thời, đồng bộ quy định về xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật, ngay sau khi có các văn bản chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Sở Tư pháp đã tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành kế hoạch số 201/KH-UBND ngày 22/11/2021 với các quy định cụ thể về nội dung, phân công trách nhiệm cho các cơ quan, đơn vị. Đồng thời, Sở Tư pháp tỉnh Tuyên Quang đã biên soạn 04 bộ tài liệu, sổ tay hướng dẫn nghiệp vụ công tác xây dựng xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật, in và cung cấp 1.200 cuốn cho các cơ quan, đơn vị. Sở Tư pháp, phòng Tư pháp huyện, thành phố đã tham mưu tổ chức 42 hội nghị, lớp tập huấn cho 3.500 lượt đại biểu đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp; các cơ quan, đơn vị, phòng, ban tham mưu theo các tiêu chí chỉ tiêu tiếp cận pháp luật; văn phòng điều phối nông thôn mới; lãnh đạo, công chức cấp xã[3, tr.19]

Thứ hai, có sự phân công nhiệm vụ cho các cơ quan, đơn vị trong việc theo dõi, hướng dẫn, chỉ đạo, đôn đốc việc thực hiện các tiêu chí đạt chuẩn tiếp cận pháp luật

Để phát huy được tính chủ động, trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị và là căn cứ để đánh giá, Ủy ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang đã ban hành các văn bản để phân công nhiệm vụ cụ thể đối với từng cơ quan đơn vị trong việc theo dõi, hướng dẫn, chỉ đạo, đôn đốc việc thực hiện các tiêu chí đạt chuẩn tiếp cận pháp luật. Cụ thể: Kế hoạch số 201/KH-UBND đã yêu cầu: Sở Tư pháp chủ trì đối với chỉ tiêu 1 của tiêu chí 1, chỉ tiêu 1, 2, 3, 4, 5 của tiêu chí 2, chỉ tiêu 1 và 3 của tiêu chí 3; Sở Nội vụ chủ trì đối với các chỉ tiêu của tiêu chí 4; Sở Tài chính chủ trì đối với chỉ tiêu 2 của tiêu chí 3; Công an chủ trì đối với chỉ tiêu 4 của tiêu chí 5;… Trên cơ sở nhiệm vụ được phân công, các cơ quan, đơn vị đã ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện tiêu chí, chỉ tiêu; hướng dẫn cấp huyện, cấp xã theo ngành dọc tổ chức thực hiện và tự chấm điểm, đánh giá, qua đó nâng cao chất lượng thực hiện các tiêu chí, chỉ tiêu trên địa bàn tỉnh.

Thứ ba, có sự phối hợp tốt giữa các cơ quan, đơn vị với Văn phòng điều phối nông thôn mới trong tổ chức thực hiện, đánh giá tiêu chí 18.5 trong Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới

Sở Tư pháp, phòng Tư pháp, một số cơ quan, đơn vị đã chủ động liên hệ công tác với các thành viên Ban chỉ đạo các chương trình mục tiêu quốc gia cấp tỉnh, cấp huyện trong thực hiện tiêu chí 18.5 thuộc Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới. Từ năm 2017 đến nay, với sự tham gia của các cơ quan, đơn vị phụ trách công tác xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật, Hội đồng thẩm định, đánh giá công nhận 54 xã đạt nông thôn mới, trong đó bảo đảm không có xã nào không đạt do chưa đảm bảo tiêu chí 18.5. 

1.3. Kinh nghiệm xây dựng mô hình cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật tại tỉnh Quảng Bình

Thứ nhất, ban hành văn bản hướng dẫn công tác xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật

Ngày 28/4/2020, Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Bình ban hành Công văn số 713/UBND-NC về việc thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; hòa giải ở cơ sở; xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật. Theo đó, các sở, ngành và cơ quan liên quan có trách nhiệm tham mưu triển khai thực hiện có hiệu quả công tác xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật trên địa bàn tỉnh; hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện và kiến nghị chính sách, cơ chế hỗ trợ nhằm thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ này. Thực hiện các chỉ tiêu, tiêu chí với trách nhiệm của các cấp chính quyền là cơ sở đáp ứng yêu cầu đặt ra trong tình hình mới, nâng cao tính minh bạch, chất lượng trong hoạt động công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức; phổ biến, giáo dục pháp luật; hòa giải ở cơ sở; phát huy dân chủ ở cơ sở của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Thứ hai, chú trọng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, đặc biệt là đối với đồng bào Công giáo

Để đưa pháp luật vào cuộc sống thì nhận thức của người dân đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Đặc biệt, với hơn 112.000 tín đồ là đồng bào Công giáo cùng 49 linh mục, 2 giáo hạt, 35 giáo xứ, 94 giáo họ, 2 giáo điểm, 84 nhà thờ,...[4] nên việc phổ biến, triển khai chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước cho người dân ở cơ sở nói chung và bà con giáo dân nói riêng luôn được các cơ quan có thẩm quyền quan tâm thực hiện. Trong giai đoạn 2015- 2019, Ban Tôn giáo tỉnh đã phối hợp với Ban Tôn giáo Chính phủ, chính quyền các huyện, thị xã, thành phố tổ chức được trên 11 hội nghị, tuyên truyền cho hơn 1.200 lượt chức sắc, chức việc và đồng bào giáo dân trên địa bàn tỉnh[1].

Thứ ba, tăng cường củng cố, kiện toàn Tổ hoà giải ở cơ sở

Giải quyết kịp thời các vụ tranh chấp, mâu thuẫn trong nhân dân, hạn chế đơn thư khiếu nại tố cáo, xây dựng khối đoàn kết cộng đồng là vai trò quan trọng của Tổ hòa giải ở cơ sở. Do đó, Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Bình đã yêu cầu các địa phương thường xuyên củng cố, kiện toàn Tổ hòa giải ở cơ sở và đội ngũ hòa giải viên tại các thôn, tổ dân phố; rà soát, đánh giá chất lượng hoạt động hòa giải ở từng địa bàn cụ thể; vận động thay thế các hòa giải viên không đủ điều kiện để thực hiện công tác hòa giải một cách tích cực, hiệu quả; phát huy vai trò của các mô hình tự quản trong cộng đồng dân cư đối với việc giữ gìn trật tự an toàn xã hội ở địa phương;… Riêng trong năm 2022, toàn tỉnh đã tiếp nhận 794 vụ hòa giải, trong đó có 608 vụ hòa giải thành, chiếm tỷ lệ 79%[5]. Có thể thấy rằng, những chủ trương của chính quyền địa phương là cơ sở để công tác hòa giải khẳng định vị trí, vai trò trong đời sống xã hội, góp phần giải quyết các tranh chấp ngay từ cơ sở, duy trì quan hệ tốt đẹp trong cộng đồng dân cư, giữ gìn an ninh trật tự. 

2. Một số giá trị tham khảo cho tỉnh Nam Định 

Thứ nhất, chính quyền địa phương các cấp cần nhận thức rõ vai trò, trách nhiệm trong chỉ đạo, hướng dẫn công tác tiếp cận pháp luật trong đó chú trọng phân công nhiệm vụ cụ thể cho các cơ quan có liên quan và theo dõi việc phối hợp để hoàn thành nhiệm vụ xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật đảm bảo thời gian, chất lượng. Đồng thời, xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị đối với các tiêu chí, chỉ tiêu thực hiện không hiệu quả, chất lượng kém.

Thứ hai, phát huy vai trò đầu mối tham mưu của Sở Tư pháp, phòng Tư pháp trong công tác triển khai quy định của Trung ương cũng như đề xuất các giải pháp khắc phục tồn tại, hạn chế, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thực hiện các tiêu chí, chỉ tiêu xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật trên địa bàn.

Thứ ba, chú trọng ban hành văn bản chỉ đạo, hướng dẫn các đơn vị cấp huyện thực hiện có hiệu quả Quyết định số 25/2021/QĐ-TTg và Thông tư 09/2021/TT-BTP; tổ chức tập huấn nội dung các văn bản trên trong đó chú trọng đổi mới hình thức tập huấn để nâng cao chất lượng và tác động mạnh mẽ hơn đến nhận thức của cán bộ, công chức tham gia tập huấn.

Thứ tư, tăng cường bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật; tổ chức tập huấn nâng cao kiến thức, cung cấp đầy đủ tài liệu hướng dẫn có liên quan để đội ngũ báo cáo viên nắm chắc chính sách, pháp luật cũng như kỹ năng, phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật phù hợp với từng địa bàn như đô thị, nông thôn, vùng đông đồng bào có đạo. Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ hiện đại trong phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua các hình thức như mạng xã hội, các diễn đàn trực tuyến, phát thanh, truyền hình... nhằm phù hợp với thực tiễn và xu hướng tiếp cận thông tin trong điều kiện hiện nay. Chú trọng nâng cao hiệu quả hoạt động phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và các tổ chức chính trị - xã hội với các ngành chức năng trên địa bàn trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.

Thứ năm, củng cố, kiện toàn nâng cao chất lượng tổ hòa giải thông qua bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng cho đội ngũ hòa giải viên; tạo điều kiện cho hòa giải viên tăng cường năng lực hòa giải thông qua các hoạt động như thi hòa giải viên giỏi, học hỏi kinh nghiệm...

Thứ sáu, đẩy mạnh công tác kiểm tra việc thực hiện quy định về cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật và đánh giá việc khắc phục tồn tại, hạn chế sau kiểm tra tránh tình trạng sau khi được kiểm tra nhưng vẫn không cải thiện chất lượng thực hiện nhiệm vụ. Đồng thời, tăng cường hướng dẫn, kiểm tra, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc của cơ sở; đề xuất, phối hợp tổ chức thực hiện các giải pháp duy trì kết quả xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật, đặc biệt quan tâm tới giải pháp khắc phục, hỗ trợ địa bàn chưa đạt chuẩn; chú trọng xây dựng các mô hình điểm về chuẩn tiếp cận pháp luật.

Kết luận

Nâng cao hiệu quả xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật ngày càng trở nên cấp thiết đối với các địa phương, trong đó, có tỉnh Nam Định. Kết quả nghiên cứu quá trình xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật ở các địa phương Hà Nội, Tuyên Quang, Quảng Bình rất có giá trị. Đó là những kinh nghiệm phù hợp với các điều kiện của tỉnh Nam Định, hướng tới mục tiêu xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

Tài liệu tham khảo:

[1] Nguyễn Trung Chính, Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào Công giáo trên địa bàn tỉnh và một số kiến nghị, đề xuất, https://stp.quangbinh.gov.vn

[2] Hoàng Việt Hà - Đinh Quỳnh Mây (2022), Sở Tư pháp nhiều địa phương đã chủ động, tích cực tham mưu Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh triển khai thực hiện quy định về xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số tháng 5 - 2022.

[3] Vũ Thị Minh Hiền (2022), Tuyên Quang phát huy vai trò, trách nhiệm của các ngành, các cấp thực hiện có hiệu quả quy định về xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số tháng 5 - 2022.

[4] Hoàng Thanh Hiến (2022), Nâng cao hiệu quả công tác quản lý thông tin, tuyên truyền về dân tộc, tôn giáo trên địa bàn tỉnh Quảng Bình, https://www.tapchicongsan.org.vn

[5] Minh Phương (2023), Quảng Bình: Tiếp tục nâng cao chất lượng xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật, https://baophapluat.vn

Đọc thêm

Đảng bộ tỉnh Hòa Bình lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh

Tác giả: PGS, TS NGUYỄN VĂN SỰ - NGUYỄN HOÀNG ANH

(LLCT) - Nghị quyết số 37 - NQ/TW ngày 01-7-2004 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2020, nhằm khai thác, phát huy lợi thế của vùng, tăng cường tính liên kết nội vùng và liên vùng, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, tạo không gian phát triển mới... Bài viết tập trung làm rõ những thành tựu, hạn chế sau 15 năm Đảng bộ tỉnh Hòa Bình lãnh đạo thực hiện Nghị quyết số 37, trên cơ sở đó rút ra những kinh nghiệm để vận dụng thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 11 của Bộ Chính trị khóa XIII trong thời gian tới.

Vai trò "đi trước mở đường, đi cùng thực hiện, đi sau tổng kết" của ngành Tuyên giáo tỉnh Điện Biên

Tác giả: MÙA A SƠN

(TG) - Trước yêu cầu, nhiệm vụ mới, công tác Tuyên giáo phải tiếp tục đóng vai trò “đi trước mở đường, đi cùng thực hiện, đi sau tổng kết” đối với tiến trình cách mạng của quê hương, đất nước; phải luôn nỗ lực, chủ động, có nhiều phương thức sáng tạo, tăng khả năng dự báo, góp phần ổn định chính trị, tạo tiền đề để tỉnh Điện Biên phát triển, tập trung vào một số nhiệm vụ trọng tâm...

Bình Phước: Những kết quả nổi bật sau 2 năm thực hiện Kết luận 01-KL/TW của Bộ Chính trị

Tác giả: VŨ TIẾN ĐIỀN

(TG) - Sau hai năm triển khai thực hiện Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, nhận thức về việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh của cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng bộ tỉnh Bình Phước tiếp tục được nâng lên rõ rệt, trở thành nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, từ đó giúp tạo chuyển biến mạnh mẽ trong hành động, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, công tác xây dựng Đảng, đảm bảo an ninh quốc phòng, nhất là công tác hỗ trợ người dân và doanh nghiệp thích ứng an toàn trong phòng, chống dịch bệnh COVID-19 và phục hồi phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

Thực hiện mô hình bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, bản, khu phố ở Quảng Ninh hiện nay*

Tác giả: NGUYỄN THỊ THÙY LINH

(GDLL) - Quảng Ninh là tỉnh đi đầu trong cả nước về thực hiện thí điểm nhất thể hóa chức danh bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, bản, khu phố. Với chủ trương đúng đắn, cách làm khoa học, việc thực hiện mô hình bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, bản, khu phố ở tỉnh thời gian qua đạt được nhiều kết quả tích cực, tuy nhiên còn một số hạn chế, khó khăn cần khắc phục. Bài viết phân tích thực trạng việc thực hiện mô hình bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, bản, khu phố ở Quảng Ninh và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác này trong thời gian tới.

Củng cố niềm tin của người dân đối với dịch vụ công ở khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam hiện nay

Tác giả: NGUYỄN VĂN KIỀU

(GDLL) - Từ khung lý thuyết về niềm tin của người dân đối với dịch vụ công, qua kết quả khảo sát người dân và tổ chức trong sử dụng dịch vụ công ở một số tỉnh miền núi phía Bắc, bài viết đã phân tích, đánh giá thực trạng niềm tin của người dân đối với dịch vụ công ở khu vực này, chỉ ra những biểu hiện tích cực và những biểu hiện làm suy giảm niềm tin của người dân đối với dịch vụ công. Từ đó, đề xuất giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế, thúc đẩy những yếu tố tích cực góp phần củng cố niềm tin của người dân đối với dịch vụ công ở khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam hiện nay.