Đại hội đại biểu Người Công
giáo Việt Nam xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thành phố Cần Thơ lần thứ VIII, nhiệm
kỳ 2023 - 2028 (nguồn: news.vnanet.vn)
Đặt vấn đề
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định công tác
tôn giáo trong thời gian tới cần: “Vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn
giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời, đẹp đạo, đóng góp tích cực cho công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm cho các tổ chức tôn giáo hoạt động theo quy
định của pháp luật và hiến pháp, điều lệ được Nhà nước công nhận. Phát huy
những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự
phát triển đất nước. Kiên quyết đấu tranh và xử lý nghiêm minh những đối tượng
lợi dụng tôn giáo chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa, chia rẽ,
phá hoại đoàn kết tôn giáo và khối đoàn kết dân tộc”[3; tr.171].
1. Một số đặc điểm
của tôn giáo ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo
và có xu hướng ngày càng phát triển. Theo Ban Tôn giáo Chính
phủ, tính đến tháng 11/2021 Việt Nam có 16 tôn giáo được công nhận tư cách pháp
nhân với 43 tổ chức tôn giáo được cấp phép hoạt động[1]. Ở Việt Nam hiện nay có tôn giáo nội
sinh (Phật giáo Hòa Hảo, Đạo Cao Đài), có tôn giáo ngoại sinh (Phật giáo, Công
giáo, Tin lành, Hồi giáo, Baha’i, Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam, Đạo Bà-la-môn,…)
cùng tồn tại và phát triển cả về số lượng tín đồ và cơ sở thờ tự. Ngoài ra, ở
một số vùng dân tộc thiểu số còn tồn tại các loại hình tín ngưỡng, tôn giáo sơ
khai như: tô tem giáo; ma thuật giáo... tạo nên đời sống tôn giáo đa dạng,
phong phú và có sự tác động nhất định (tích cực và tiêu cực) tới sự phát triển
đất nước.
Thứ hai, Việt Nam là đất nước ôn hoà trong
quan hệ giữa các tôn giáo; có truyền thống đoàn kết tôn giáo, đoàn kết dân tộc
trong quá trình dựng nước, giữ nước và trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong giai đoạn hiện nay, cùng với chính sách đại
đoàn kết dân tộc, đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đoàn kết đồng
bào có tôn giáo và đồng bào không có tôn giáo vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”, các cộng đồng tôn giáo và không có tôn giáo ở
Việt Nam ngày càng đoàn kết, hòa hợp gắn bó và đồng hành cùng dân tộc.
Thứ ba, hoạt động của các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam ngày càng ổn định
và đóng góp to lớn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong những năm qua, các tôn giáo và tổ chức
tôn giáo được công nhận tư cách pháp nhân ở Việt Nam đều xác định cho mình
đường hướng phát triển phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước. Với Phật giáo là Đạo
giáo, Dân tộc và Chủ nghĩa xã hội;
với Công giáo là Sống
phúc âm giữa lòng dân tộc; với Tứ ân Hiếu nghĩa là Hành tứ ân - sống Hiếu nghĩa – vì đại đoàn kết toàn dân tộc; với Tịnh độ Cư sỹ Phật
hội Việt Nam là Tu
học, hành thiện, ích nước, lợi dân;... Bên cạnh đó, số lượng đảng viên là người có đạo, số lượng chức sắc
tôn giáo trúng cử đại biểu quốc hội ngày càng tăng.
Thứ tư, xuất hiện một số đạo lạ, tà đạo và hoạt động ngày càng phức
tạp. Trong những năm qua,
Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm, tạo điều kiện, đáp ứng ngày càng tốt hơn
nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo cho người dân, trong đó có cả người nước ngoài cư
trú hợp pháp ở Việt Nam. Tuy nhiên, các thế lực thù địch lại không ngừng tìm
cách hình thành và phát triển các đạo lạ, tà đạo nhằm tạo ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống tinh thần, tín ngưỡng của một bộ phận
nhân dân và xâm phạm an ninh chủ quyền
quốc gia, trật tự an toàn xã hội, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, từ đó hình
thành các lực lượng đối lập với Đảng và Nhà nước Việt Nam. Có thể kể đến
một số đạo lạ như: Thanh Hải Vô Thượng Sư, Tam Tổ Thánh Hiền, Đạo Trứng… điển
hình là sự hoạt động của tổ chức mang tên “Hội thánh Đức Chúa Trời” với những
hành vi trái với đạo lý của dân tộc: đập bỏ bát hương, phá bàn thờ tổ tiên;
tuyên truyền thờ cúng tổ tiên, ông bà, người đã chết là thờ cúng ma quỷ; phụ nữ
bỏ chồng con; con bỏ cha mẹ; học sinh, sinh viên bỏ học tập,… vừa vi phạm pháp
luật vừa không phù hợp với phong tục, truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt
Nam.
2. Nhận diện những phương thức, hình
thức xuyên tạc vấn đề tôn giáo ở Việt Nam hiện nay
Trong lịch sử cận
và hiện đại của dân tộc, các thế lực thực dân, đế quốc, phản động luôn tìm mọi
cách lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo và các vấn đề liên quan để gây mất ổn định
an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, phục vụ cho mục đích chính trị của
chúng. Hiện nay, các thế lực thù địch vẫn sử dụng, lợi dụng tín ngưỡng, tôn
giáo như một thứ vũ khí nhằm thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, phá
hoại công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Với chiêu
bài “tự do tôn giáo”, “nhân quyền”, chúng xuyên tạc, bóp méo đường lối, chính
sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta, âm mưu tạo ra lực
lượng và xây dựng ngọn cờ trong tôn giáo, hòng lật đổ Nhà nước xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam.
Về phương thức xuyên tạc, chống phá của một số lực lượng thù địch
Xuyên tạc, diễn đạt sai lệch quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về tín
ngưỡng, tôn giáo. Các thế lực thù địch triệt để lợi dụng từ “tự do” trong cụm
từ “quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo” trong hệ thống pháp luật Việt Nam để mưu
đồ tách tôn giáo ra khỏi sự quản lý của nhà nước, làm cho tôn giáo đứng ngoài pháp luật, đứng trên pháp luật.
Cụ thể:
Tuyệt đối hoá tự do cá nhân mà bỏ qua việc xem xét mối quan hệ giữa quyền cá nhân với quyền của cộng
đồng, quốc gia dân tộc, từ đó cổ xuý cho quan niệm tách nhân quyền ra khỏi chủ
quyền quốc gia, hoặc đối lập nhân quyền với chủ quyền quốc gia, cho rằng “nhân quyền cao hơn chủ quyền” vì vậy cần phải “hy sinh chủ
quyền”, trong các vấn đề dân chủ, dân tộc, tôn giáo.
Vu cáo chính quyền Việt Nam vi phạm nhân quyền, không dân chủ, đàn áp
tôn giáo, phân biệt đối xử với các tôn giáo. Tố cáo Việt Nam vi phạm quyền tự do ngôn luận, bắt giam và xét xử không
theo chuẩn mực quốc tế đối với những người mà họ gọi là “hiệp sĩ đi đầu” trong
sự nghiệp đấu tranh bảo vệ “tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền”; ngăn chặn, “làm
khó” những tôn giáo chưa được chính quyền thừa nhận; không cho tôn giáo can
thiệp vào vấn đề giáo dục, y tế...
Bên cạnh đó, quá trình hội nhập quốc tế, mở rộng
quan hệ, hợp tác đầu tư với nước ngoài đang làm nảy sinh một số thiếu sót trong
quản lý nhà nước về hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, cùng với những biểu hiện
tiêu cực của cơ chế thị trường… từ đó các thế lực thù địch không ngừng thổi phồng những yếu kém, khuyết điểm của ta, cho rằng đó là
khuyết điểm mang tính bản chất không thể khắc phục trong xã hội xã hội chủ
nghĩa, quy mọi sai lầm vào vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, chỉ
trích Đảng độc đoán, chuyên quyền, từ đó đòi xoá bỏ Điều 4 của Hiến pháp năm 2013
quy định về vị trí và vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong hệ thống chính trị của đất nước.
Hình thức xuyên tạc, chống phá
- Chống phá thông qua việc ra các đạo luật, nghị quyết từ nước ngoài với
những báo cáo lệch lạc, thiếu căn cứ pháp lý để tăng sức ép, vu cáo Việt Nam vi
phạm nhân quyền, đàn áp tôn giáo;
- Lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, lợi dụng sự mở rộng về dân
chủ, nhân quyền của Nhà nước Việt Nam để tiến tới quốc tế hóa vấn đề tôn giáo,
hòng can thiệp vào các vấn đề nội bộ của Việt Nam;
- Tuyên truyền đề cao các giá trị của chủ nghĩa tư bản về đa nguyên chính
trị, đa đảng đối lập, dựng ngọn cờ “tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền”; nhằm chia
rẽ giữa nhân dân, Quân đội, Công an với Đảng, Nhà nước; chia rẽ đồng bào có đạo
và không có đạo, chia rẽ các tín đồ tôn giáo với nhau nhằm phá hoại khối đại
đoàn kết toàn dân; tuyên truyền chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa cá nhân, truyền
bá các sản phẩm đồi truỵ, tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan…;
- Các thế lực thù địch, cơ hội chính trị lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn
giáo đã thường xuyên đăng tải những thông tin sai trái, bịa đặt, xuyên tạc sự
thật về “tự do tín ngưỡng, tôn giáo” ở Việt Nam trên các trang mạng Internet,
mạng xã hội Facebook, nhằm tạo sự hoài nghi về đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng
sản, các chính sách, pháp luật của Nhà nước có liên quan đến tôn giáo và hoạt
động tự do tôn giáo; tạo phản ứng tiêu cực trong một bộ phận chức sắc cực đoan
và số tín đồ cuồng tín. Các thế lực thù địch tìm cách tạo dựng các vụ việc phức
tạp mang màu sắc của tôn giáo để phá hoại an ninh chính trị, trật tự xã hội và
mục đích cao nhất là dùng sức mạnh của tôn giáo để lật đổ chế độ xã hội chủ
nghĩa ở nước ta, đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam.
3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt
Nam về vấn đề tôn giáo
Quan điểm của
Đảng và Nhà nước Việt Nam về vấn đề tôn giáo được xây dựng dựa trên quan điểm
cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo
và căn cứ vào đặc điểm tín ngưỡng, tôn giáo
ở Việt Nam hiện nay. Các quan điểm này, một
mặt tạo điều kiện cho các tôn giáo hợp pháp phát huy mặt tích cực, coi đó như
là một trong những nguồn lực quan trọng góp phần vào tiến trình xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, chủ động phòng ngừa và đấu
tranh, ngăn chặn các thế lực thù địch, phản động lợi dụng các vấn đề tôn giáo,
dân tộc, dân chủ và nhân quyền để chống phá nhà nước ta.
Thứ nhất, Đảng, Nhà nước Việt Nam tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân
Điều 12 Chương I, Hiến pháp 2013 quy định: Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam tôn trọng Hiến chương Liên Hợp Quốc và các điều ước quốc tế mà Việt
Nam là thành viên. Việt Nam là một trong những nước sớm phê chuẩn Công ước quốc
tế về nhân quyền.
Với nguyên tắc đó, Luật tín ngưỡng, tôn giáo
năm 2016 (có hiệu lực 1/1/2018) và nhiều văn bản quy phạm pháp luật
khác của Quốc hội, của Nhà nước Việt Nam đã quán triệt và thể chế hóa đầy đủ
những quan điểm, chủ trương, chính sách tín
ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. Cụ thể:
Điều 3. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định: Trách nhiệm của Nhà
nước trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
1. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của mọi người; bảo đảm để các tôn giáo bình đẳng trước pháp
luật.
2. Nhà nước tôn trọng, bảo vệ giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tín
ngưỡng, tôn giáo, truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh người có công với đất
nước, với cộng đồng đáp ứng nhu cầu tinh thần của Nhân dân.
3. Nhà nước bảo hộ cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo và tài sản hợp pháp
của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo.
Điều 5. Khoản 1, 2, 3 Luật tín ngưỡng, tôn giáo, quy định về các hành vi
bị nghiêm cấm
1. Phân biệt đối xử, kỳ thị vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo.
2. Ép buộc, mua chuộc hoặc cản trở người
khác theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo.
3. Xúc phạm tín ngưỡng, tôn giáo.
Các quy định pháp lý trên phù hợp với tinh thần và nội dung tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của Công ước quốc tế và đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo
của nhân dân, củng cố niềm tin, tạo động lực để đồng bào các tôn giáo “đồng
hành cùng dân tộc”, góp phần quan trọng vào củng cố khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
Điều 24, Chương
II, Hiến pháp 2013 quy định: 1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo,
theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật.
2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. 3. Không ai
được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để
vi phạm pháp luật.
Như vậy, so với
các bản Hiến pháp 1959, 1980, 1992, Hiến pháp 2013 có một bước tiến quan trọng,
một sự kế thừa và phát triển của Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế về
vấn đề tự do tín ngưỡng tôn giáo, thể hiện ở việc đã thay thuật ngữ “công dân”
bằng thuật ngữ “mọi người”. Quan điểm này cho thấy, Việt Nam coi tín ngưỡng,
tôn giáo là một trong những quyền cơ bản, tự nhiên của con người, quyền tin
theo một tín ngưỡng hoặc một tôn giáo nào đó không phụ thuộc vào việc người đó
có quyền công dân hay không, tin theo tôn giáo là một hiện tượng thuộc lĩnh vực
tinh thần, và đó là quyền tự do trong tư tưởng. Nhà nước thừa nhận, tôn trọng,
bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm tự
do tín ngưỡng, tôn giáo cũng như lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo để vi phạm pháp
luật.
Tiếp đó, văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã đưa ra quan điểm có tính chất
đột phá trong nhận thức về tôn giáo và công tác tôn giáo: “Phát huy những giá
trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp
phát triển đất nước”[3;171].
Sách trắng Tôn giáo và chính sách tôn
giáo ở Việt Nam (3/2023) cũng khẳng định các tôn giáo đều bình đẳng
trước pháp luật, không một cá nhân, tổ chức tôn giáo nào hoạt động đúng pháp
luật mà bị ngăn cấm[4].
Thực tiễn cho thấy các hoạt động lễ hội tôn giáo như lễ Phật đản của Phật
giáo, lễ Noel của Công giáo... và hàng loạt các ngày lễ của các tôn giáo khác, đều
được tổ chức long trọng, với sự tham gia của hàng trăm nghìn tín đồ. Theo thông
tin từ Ban Tôn giáo Chính phủ, Đại lễ Phật đản Liên Hợp Quốc Vesak năm 2008,
được tổ chức trọng thể tại Hà Nội, có sự tham dự của hơn 4.000 tăng ni, phật tử,
trong đó có khoảng 2.000 chức sắc, tín đồ đến từ 74 quốc gia, vùng lãnh thổ
trên thế giới. Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc Vesak 2019 tại Việt Nam, đã có 500
phái đoàn đến từ 105 quốc gia và vùng lãnh thổ xác nhận tham dự, trong đó có
các nguyên thủ quốc gia như Tổng thống Myanmar, Thủ tướng Nepal, Chủ tịch
Thượng viện Bhutan, Phó Tổng Thư ký Liên hợp quốc...
Như vậy, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng và bảo đảm quyền tự do
tín ngưỡng và không tín ngưỡng, tôn giáo; thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn
kết lương - giáo và giữa các tôn giáo; khắc phục thái độ hẹp hòi, thành kiến,
phân biệt đối xử với đồng bào có đạo, chống mọi hành vi vi phạm quyền tự do tín
ngưỡng của nhân dân.
Thứ hai, Đảng, Nhà nước Việt Nam nghiêm cấm
các hoạt động lợi dụng tôn giáo để vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích
hợp pháp của Nhà nước và của công dân
Điều 5, Khoản 4 và 5 của Luật tín ngưỡng, tôn
giáo, quy định về các hành vi bị nghiêm cấm của hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo
bao gồm:
- Hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo
a) Xâm phạm quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc
gia, trật tự, an toàn xã hội, môi trường;
b) Xâm hại đạo đức xã hội; xâm phạm thân thể, sức khỏe, tính mạng, tài
sản; xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác;
c) Cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân;
d) Chia rẽ dân tộc; chia rẽ tôn giáo; chia rẽ người theo tín ngưỡng, tôn
giáo với người không theo tín ngưỡng, tôn giáo, giữa những người theo các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau.
- Lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo để trục lợi.
Đại hội XIII đã đưa ra nhiệm vụ trung tâm và giải pháp chủ yếu để làm tốt
công tác tôn giáo: “Tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt đúng
quy định của pháp luật; chủ động giúp đỡ, giải quyết các nhu cầu hoạt động tôn
giáo, tín ngưỡng, tâm linh của quần chúng, đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên
quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá
hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản
lý nhà nước về công tác tôn giáo”[3,
tr.141].
Như vậy, Nhà nước ta tôn trọng và bảo đảm quyền
tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân. Mọi hoạt động tôn giáo trong
khuôn khổ của pháp luật được tôn trọng và bảo vệ. Đồng thời, Nhà nước Việt Nam
xã hội chủ nghĩa cũng kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo để xâm phạm quốc phòng an ninh, chủ quyền quốc gia, an toàn xã
hội; chia rẽ dân tộc, chia rẽ tôn giáo, chia rẽ người có đạo và những người
không có đạo, chia rẽ những người theo các tín ngưỡng tôn giáo khác nhau; từ đó
phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nhà nước nghiêm cấm lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan và trục lợi. Những quy định của
pháp luật cũng là cơ sở để chúng ta kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, làm vô hiệu
hóa các “đạo lạ”, “tạp giáo”, “tà giáo”;
lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật, chia rẽ khối đại đoàn
kết toàn dân tộc, phá hoại sự nghiệp đổi mới đất nước vì mục tiêu “Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Kết luận
Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về tôn giáo được xây
dựng dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
quyền tự do tôn giáo, coi tôn giáo như
là một trong những nhu cầu tinh thần
của một bộ phận quần chúng nhân dân, đang và sẽ tồn tại trong tiến trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội.Tín ngưỡng tôn giáo là một vấn đề tế
nhị, nhạy cảm, phức tạp, do đó khi giải quyết vấn đề tôn giáo phải có nguyên
tắc, phải mềm dẻo, linh hoạt, trên tinh thần tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng
và không tín ngưỡng của nhân dân. Đồng thời, phân biệt rõ mối quan hệ giữa hai
mặt chính trị và tư tưởng trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo; tôn trọng nhu
cầu tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân nhưng phải thường xuyên đấu tranh loại bỏ
yếu tố chính trị, phản động trong tôn giáo; ngăn chặn các hoạt động lợi dụng
tôn giáo nhằm chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Tài liệu tham khảo:
[1] Ban Tôn giáo Chính phủ (2023), Tôn giáo và Chính sách tôn giáo ở Việt Nam, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.
[2] Nguyễn Hồng Dương
(2014), Tiếp tục đổi mới chính sách về tôn
giáo ở Việt Nam hiện nay - Những vấn đề lý luận cơ bản, Nxb. Văn hóa
- Thông tin, Hà Nội.
[3] Đảng Cộng sản
Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà
Nội.
[4] Thu Lan (2023), Ra mắt sách trắng tôn giáo và chính sách tôn giáo ở
Việt Nam, https://dangcongsan.vn
[5] Nguyễn Phú Lợi (2022),
Phê phán các quan điểm sai trái, thù địch về
tự do tôn giáo ở Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, https://www.tapchicongsan.org.vn
[6] Phùng Hữu Phú (2016),
Một số vấn đề lý luận – thực tiễn Về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam qua 30 năm đổi mới,
Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.
[7] Quốc hội (2013), Hiến pháp nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
[8] Quốc hội (2016), luật số 02/2016/QH14, Luật tín ngưỡng, tôn giáo.