Thứ Sáu, ngày 22/09/2023, 15:53

Nâng cao ý thức trách nhiệm và khát vọng bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam cho các tầng lớp nhân dân hiện nay

Phan Văn Lương
Trường Sĩ quan Chính trị.

(GDLL) - Biển, đảo Việt Nam không chỉ là nơi chứa đựng những tiềm năng kinh tế to lớn mà còn có vai trò quan trọng bảo đảm an ninh, quốc phòng. Trên cơ sở khái quát về chủ quyền biển, đảo Việt Nam, thực trạng ý thức, trách nhiệm và khát vọng bảo vệ chủ quyền biển, đảo, bài viết tập trung đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm và khát vọng bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc cho các tầng lớp nhân dân ở Việt Nam thời gian tới.

Bình Định phát huy vai trò của đoàn viên, thanh niên trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo (nguồn: news.vnanet.vn)

Đặt vấn đề

Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 xác định mục tiêu đến năm 2045: “Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh, an toàn; kinh tế biển đóng góp quan trọng vào nền kinh tế đất nước, góp phần xây dựng nước ta thành nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa; tham gia chủ động và có trách nhiệm vào giải quyết các vấn đề quốc tế và khu vực về biển và đại dương”[1].Trong tình hình mới hiện nay, tập trung khơi dậy khát vọng phát triển biển, đảo bền vững trong cán bộ, đảng viên, nhân dân và lực lượng vũ trang; cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân hiện thực hóa các mục tiêu, chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đề ra có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn.

1. Chủ quyền biển, đảo Việt Nam

Biển, đảo Việt Nam là một bộ phận cấu thành chủ quyền quốc gia, là không gian sinh tồn, cửa ngõ giao lưu quốc tế, gắn bó mật thiết với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây cũng là địa bàn chiến lược về quốc phòng, an ninh, là tuyến phòng thủ hướng đông của đất nước, tạo khoảng không gian cần thiết giúp kiểm soát việc tiếp cận lãnh thổ trên đất liền.

Căn cứ quy định của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS) năm 1982, Điều 3, Luật Biển năm 2013 xác định “Vùng biển Việt Nam bao gồm nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của Việt Nam, được xác định theo pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế về biên giới lãnh thổ mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và phù hợp với Công ước của Liên hiệp quốc về Luật Biển năm 1982”[5].

Như vậy, theo Công ước của Liên hiệp quốc về Luật Biển năm 1982, Việt Nam có diện tích biển khoảng trên 1 triệu km2, gấp 3 lần diện tích đất liền, chiếm gần 30% diện tích Biển Đông (cả Biển Đông gần 3,5 triệu km). Với bờ biển dài trên 3.260 km trải dài từ Bắc xuống Nam, có khoảng 3.000 hòn đảo lớn, nhỏ và 2 quần đảo xa bờ là Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam đứng thứ 27 trong số 157 quốc gia ven biển, các quốc đảo và các lãnh thổ trên thế giới. Chỉ số chiều dài bờ biển trên diện tích đất liền của nước ta là xấp xỉ 0,01 (nghĩa là cứ 100 km2 đất liền có 1 km bờ biển). Trong 63 tỉnh, thành phố của cả nước thì 28 tỉnh, thành phố có biển và gần một nửa dân số sinh sống tại các tỉnh, thành ven biển[4]. Việc bảo vệ chủ quyền quốc gia ở vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa là bảo vệ đặc quyền của quốc gia về bảo tồn, quản lý, thăm dò, khai thác tài nguyên thiên nhiên của biển ở những nơi đó; thực chất là bảo vệ lợi ích kinh tế ở vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của quốc gia. Đó là nhiệm vụ và trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, của cả hệ thống chính trị; phát huy sức mạnh tổng hợp của mọi lực lượng; kết hợp chặt chẽ các biện pháp đấu tranh chính trị, kinh tế, pháp lý, ngoại giao và trên thực địa.

Thế kỷ XXI được xem là “Thế kỷ của đại dương”, khai thác biển đang trở thành vấn đề mang tính chiến lược đối với nhiều quốc gia, vấn đề tranh chấp chủ quyền biển, đảo giữa các quốc gia cũng ngày càng nghiêm trọng, đe dọa đến nền hòa bình của nhiều quốc gia trên thế giới. Do đó, nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo cũng đặt ra nhiều vấn đề cấp bách đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân phải không ngừng củng cố, nâng cao ý thức, trách nhiệm và khơi dậy khát vọng bảo vệ chủ quyền biển, đảo cho mọi người dân Việt Nam trong tình hình mới.

2. Thực trạng ý thức, trách nhiệm và khát vọng bảo vệ chủ quyền biển, đảo của người dân Việt Nam thời gian qua

Một là, tuyệt đại đa số người dân Việt Nam đã ý thức được biển, đảo có vị trí chiến lược hết sức quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến sự nghiệp bảo vệ nền độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, có liên quan trực tiếp đến sự phồn vinh của đất nước, đến văn minh và hạnh phúc của nhân dân. Người dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng thực sự yên tâm và gắn bó với biển, đảo để khai thác những tiềm năng tài nguyên phong phú, đa dạng của biển, đảo trong phát triển kinh tế gắn với bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo quốc gia. Hội nghị lần thứ tám, Ban Chấp hành Trung ương khóa XII khẳng định: “nhận thức của toàn hệ thống chính trị, nhân dân và đồng bào ta ở nước ngoài về vị trí, vai trò của biển, đảo đối với phát triển kinh tế, bảo vệ chủ quyền quốc gia được nâng lên rõ rệt. Chủ quyền, an ninh quốc gia trên biển được giữ vững…”[1]

Hai là, đại đa số người dân Việt Nam tin tưởng, chấp hành sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, pháp luật về quốc phòng, an ninh, về bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam. Bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia trên biển đang đặt ra nhiều nhiệm vụ cấp bách, trong đó có vấn đề “xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân trên biển”. Nhận thức được điều đó, người dân Việt Nam cơ bản đều đã quán triệt tốt quan điểm của Đảng, Nhà nước đối với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo và giải quyết những bất đồng trên biển, đảo: giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với sự nghiệp quốc phòng, an ninh cũng như nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc; phát huy sức mạnh tổng hợp và đề cao trách nhiệm của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, của cả hệ thống chính trị vào thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo. 

Ba là, nhân dân ở trong nước và kiều bào ở nước ngoài luôn tin tưởng vào chính sách quốc phòng an ninh của Đảng và Nhà nước nói chung, bảo vệ chủ quyền biển, đảo nói riêng. Đồng thời, chấp hành nghiêm chính sách, pháp luật liên quan đến biển, đảo: Công ước của Liên hiệp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982); Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC); Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013; Luật Biên giới quốc gia số 06/2003/QH11; Luật Biển Việt Nam số 18/2012/QH13 ngày 21 tháng 6 năm 2012; Luật Quốc phòng 2018 số 22/2018/QH14; Luật Dầu khí năm 1993; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dầu khí số 19/2000/QH10 ngày 28/6/2000; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dầu khí số 10/2008/QH12 ngày 03/6/2008; Luật Thủy sản số 18/2017/QH14 ngày 21 tháng 11 năm 2017, quy định về hoạt động thủy sản; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân hoạt động thủy sản hoặc có liên quan đến hoạt động thủy sản; quản lý nhà nước về thủy sản; Bộ Luật Hàng hải Việt Nam số 95/2015/QH13 ngày 25 tháng 11 năm 2015…

Bốn là, đại đa số người dân Việt Nam luôn có khát vọng bảo vệ chủ quyền biển, đảo: Tranh thủ các nguồn lực và sự ủng hộ từ hợp tác quốc tế với các nước bạn bè cùng các tổ chức quốc tế trên mọi lĩnh vực; tăng cường học tập, nghiên cứu, phổ biến giáo dục pháp luật về bảo vệ và phát triển biển, đảo bền vững; tham gia tuyên truyền và nâng cao nhận thức cho cộng đồng về sử dụng, khai thác bền vững nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường vùng ven biển và hải đảo; quảng bá và xây dựng thương hiệu biển Việt Nam, góp phần nâng cao nhận thức về vị thế quốc gia biển và hội nhập quốc tế trong quản lý, phát triển và bảo vệ biển, đảo.

Người dân đã có trách nhiệm đối với lĩnh vực quốc phòng an ninh, lực lượng thanh niên sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ quân sự khi được gọi nhập ngũ, nhiều thanh niên ưu tú có phẩm chất và năng lực chuyên môn cao đã tình nguyện nhập ngũ phục vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo và phát triển kinh tế biển của đất nước; tích cực, chủ động tham gia lực lượng Dân quân tự vệ, xây dựng nền quốc phòng toàn dân; chấp hành biện pháp của Nhà nước và người có thẩm quyền trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo…

Ngư dân các địa phương ven biển, hải đảo luôn khắc phục khó khăn, thực hiện vươn khơi, bám biển khẳng định chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Nhận thức được rằng, nghề đi biển không chỉ là sinh kế nuôi sống bản thân, gia đình, mà còn có ý nghĩa chung tay bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Chính vì vậy, ngoài chuẩn bị lương thực, ngư cụ đánh bắt, mỗi ngư dân còn “trang bị” cho mình cả sự dũng cảm, gan dạ để ứng phó với những tình huống nguy hiểm, đe dọa từ tàu nước ngoài xâm phạm vùng biển Việt Nam. Ngày càng có nhiều chủ tàu cá xa bờ ở các tỉnh ven biển tự nguyện viết đơn xin gia nhập vào các tổ tàu đoàn kết trên biển, thể hiện quyết tâm và khát vọng vươn khơi, bám biển của người dân Việt Nam.

Tuy nhiên, bên cạnh đại bộ phận người dân có ý thức, trách nhiệm và khát vọng bảo vệ chủ quyền biển, đảo thì vẫn còn một bộ phận nhỏ cán bộ và người dân có biểu hiện về nhận thức chưa rõ ràng và sâu sắc đối với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Nhất là sự hiểu biết về quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về giải quyết các vấn đề liên quan đến chủ quyền biển, đảo trên biển Đông. Một bộ phận người dân hiểu biết về các quy định của pháp luật Việt Nam và luật pháp quốc tế về biển, đảo còn hạn chế nên còn những biểu hiện vi phạm như đánh bắt thủy hải sản sai quy định; khai thác thủy hải sản ở các vùng biển của nước ngoài, buôn lậu trên biển. Cá biệt, còn một bộ phận người dân không quan tâm hoặc thờ ơ trước những diễn biến có liên quan đến vấn đề chủ quyền quốc gia trên biển; niềm tin và thái độ, trách nhiệm đối với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo có chiều hướng suy giảm…

Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do một bộ phận người dân chưa nhận thức đúng về vị trí, tầm quan trọng của biển, đảo cũng như ý nghĩa của việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo đối với sự phát triển của đất nước. Công tác tuyên truyền nâng cao ý thức, trách nhiệm và khát vọng bảo vệ chủ quyền biển, đảo của người dân còn tồn tại những khó khăn, bất cập: Nội dung, hình thức chưa phong phú; kinh phí dành cho công tác này còn rất hạn chế; đội ngũ tuyên truyền viên còn kiêm nhiệm nhiều… Công tác nghiên cứu, dự báo còn chưa theo kịp với thực tiễn; đời sống của một bộ phận ngư dân nhất là ở các vùng hải đảo còn nhiều khó khăn.

3. Một số giải pháp nâng cao ý thức, trách nhiệm và khát vọng bảo vệ chủ quyền biển, đảo cho các tầng lớp nhân dân ở Việt Nam thời gian tới

Một là, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước đối với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo làm cơ sở nâng cao ý thức, trách nhiệm và khát vọng bảo vệ chủ quyền biển, đảo cho người dân. Cần giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững vai trò chủ đạo và kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạch định đường lối quốc phòng, anh ninh, bảo vệ Tổ quốc nói chung và bảo vệ chủ quyền biển, đảo nói riêng. 

Hai là, đẩy mạnh công tác nghiên cứu thực tiễn, tổng kết lý luận về vấn đề biển, đảo; xây dựng các lực lượng thực thi pháp luật biển. Đầu tư đúng mức cho nghiên cứu tổng kết lý luận và thực tiễn thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong lịch sử, nhất là từ năm 1975 đến nay. Đồng thời tăng cường năng lực nghiên cứu, dự báo, thực hiện nhiệm vụ của các cơ quan, các lực lượng thực hiện và thực thi pháp luật trên biển. Đẩy mạnh công tác “xã hội hóa” bảo vệ môi trường biển, bảo đảm an ninh, trật tự trên các vùng biển, đảo.

Ba là, chăm lo lợi ích vật chất và tinh thần cho nhân dân, nhất là nhân dân vùng biển, đảo; tạo sự thống nhất cao trong nội bộ, sự đồng thuận trong xã hội làm cơ sở vững chắc để nâng cao ý thức, trách nhiệm và củng cố khát vọng bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc cho nhân dân. Cần tiếp tục nghiên cứu, xây dựng các chính sách xã hội sát đúng, phù hợp với mọi đối tượng, nhất là đối với bà con ngư dân sinh sống và bám trụ cùng với biển, đảo; chính sách hợp lý đối với các lực lượng chức năng tham gia trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo.

Bốn là, nâng cao ý thức, trách nhiệm của người dân trong kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam

Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật của Việt Nam và luật pháp quốc tế về biển, đảo cho các tầng lớp nhân dân. Nâng cao hiệu quả, đa dạng hoá nội dung, hình thức, phương pháp tuyên truyền. Hoạt động tuyên truyền cần được tổ chức thường xuyên, liên tục ở các cấp, các ngành và các địa phương giúp người dân củng cố tình cảm, niềm tin và nâng cao ý chí quyết tâm đối với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc.

Nội dung tuyên truyền cần tập trung đó là: Lịch sử, cơ sở pháp lý đối với các vùng biển, đảo Việt Nam; quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo, đặc biệt làNghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về “Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”; thông tin các vấn đề liên quan đến tình hình Biển Đông để định hướng tư tưởng, dư luận trong xã hội; làm rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề biển, đảo, hoạt động bảo vệ chủ quyền biển, đảo của các lực lượng chức năng của Việt Nam để tuyên truyền xuyên tạc, chống phá...

Phát huy hiệu quả vai trò của các cơ quan báo chí, các phương tiện truyền thông đại chúng trong công tác tuyên truyền biển, đảo và phổ biến pháp luật về biển, đảo cho người dân. Biên soạn, xuất bản, phát hành các tài liệu, xuất bản phẩm về biển, đảo nhằm tuyên truyền kết hợp với đấu tranh phòng, chống các quan điểm sai trái, phản động liên quan tới vấn đề biên giới lãnh thổ quốc gia trên biển; khai thác có hiệu quả các hình thức, phương tiện tuyên truyền thông qua sử dụng mạng internet, mạng nội bộ, truyền thanh, bảng tin, bảng ảnh; tiếp tục phát huy vai trò của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên, cán bộ có uy tín ở cơ sở các chức sắc, chức việc tôn giáo, người có uy tín trong cộng đồng hội viên các đoàn thể chính trị - xã hội.

Kết luận

Bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo là trách nhiệm thiêng liêng cũng là nghĩa vụ của mỗi công dân Việt Nam góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong thời gian qua, nhân dân Việt Nam đã luôn có ý thức, trách nhiệm và thể hiện khát vọng bảo vệ chủ quyền biển, đảo của mình bằng những việc làm, hành động cụ thể của bản thân. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt ưu điểm, ý thức, trách nhiệm và khát vọng bảo vệ chủ quyền biển, đảo của một bộ phận người dân còn có những hạn chế đòi hỏi trong thời gian tới cần có những giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa ý thức, trách nhiệm và khát vọng bảo vệ chủ quyền biển, đảo của người dân.

Tài liệu tham khảo:

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2018), Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[3] Liên Hợp quốc (1982), Công ước về Luật Biển năm 1982 ký kết ngày 10 tháng 12 năm 1982, https://thuvienphapluat.vn

[4] Nguyễn Thị Hồng Ngọc - Nguyễn Thị Thuý Vân (2021), Bảo vệ chủ quyền biển, đảo và trách nhiệm của thế hệ trẻ, https://diendandoanhnghiep.vn

[5] Quốc hội, Luật Biển Việt Nam, số 18/2012/QH13 ngày 21 tháng 6 năm 2012, https://thuvienphapluat.vn

[6] Ủy ban Biên giới quốc gia - Bộ Ngoại giao (2016), Tài liệu định hướng công tác tuyên truyền về biển, đảo, Nxb. Dân Trí, Hà Nội.

Đọc thêm

Giải pháp thực hiện Cam kết của Việt Nam về "Net zero" vào năm 2050

Tác giả: Phạm Tú Tài

(GDLL) - Tại Hội nghị các Bên tham gia Công ước của Liên Hợp Quốc về Biến đổi khí hậu lần thứ 26 (COP 26), Việt Nam đã ký cam kết đạt mức phát thải ròng khí nhà kính bằng không vào năm 2050 (Net Zero). Bài viết tập trung phân tích những tác động của phát thải khí nhà kính, dẫn đến biến đổi khí hậu toàn cầu; nỗ lực của Việt Nam trong giảm phát thải khí nhà kính và đề xuất một số giải pháp Việt Nam cần thực hiện trong lộ trình "Net Zero" vào năm 2050.

Một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu Chính phủ số ở Việt Nam hiện nay

Tác giả: Vũ Thị Hoài Phương

(GDLL) - Trong quá trình xây dựng Chính phủ số ở Việt Nam, đội ngũ cán bộ, công chức đóng vai trò hết sức quan trọng. Thời gian qua, đội ngũ cán bộ, công chức đã nỗ lực hết mình để thực hiện chuyển đổi số, tuy nhiên vẫn còn một số tồn tại. Bài viết nghiên cứu về thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, góp phần xây dựng Chính phủ số ở Việt Nam hiện nay.

Quá trình phát triển nhận thức của Đảng về đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Tác giả: Lục Việt Dũng

(GDLL) - Bài viết khái quát sự phát triển nhận thức của Đảng về đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; nhấn mạnh những nội dung mới tại Nghị quyết số 27-NQTW; từ đó đề xuất một số giải pháp bảo đảm các đặc trưng này trong quá trình xây dựng, hoàn thiện mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.

Nguyên tắc và nội dung đổi mới phương pháp định hướng dư luận xã hội ở nước ta hiện nay

Tác giả: ThS Lưu Thị Thu Phương

(LLCT) - Nghiên cứu, nắm bắt, định hướng dư luận xã hội là một hoạt động quan trọng trong lãnh đạo, quản lý xã hội, do đó cần không ngừng được đổi mới công tác này để giúp cấp ủy, chính quyền phát hiện những điểm nóng về tư tưởng, kịp thời giải tỏa xung đột xã hội tiềm tàng. Bài viết tập trung làm rõ các phương pháp định hướng dư luận xã hội đang được sử dụng, nguyên tắc và nội dung đổi mới phương pháp định hướng dư luận xã hội ở Việt Nam hiện nay.

Từ tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi đến tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh

Tác giả: ThS. Cao Phan Giang

(GDLL) - Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh là những danh nhân tiêu biểu có nhiều đóng góp cho dòng tư tưởng về dân ở Việt Nam. Tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi hội tụ những giá trị vượt trội của thời đại phong kiến với và nhiều quan điểm tiến bộ về dân. Tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh là kết tinh của tư tưởng thân dân truyền thống cùng những giá trị tiến bộ của nhân loại trong ý thức hệ của giai cấp công nhân. Sự giống và khác nhau về hoàn cảnh lịch sử, ý thức hệ và bài học dựng nước, giữ nước và phát triển đất nước của hai tác giả cho thấy sự vận động và phát triển liên tục của dòng tư tưởng về dân Việt Nam.