Thứ Bảy, ngày 30/09/2023, 07:47

Hợp tác xã trong liên kết chuỗi giá trị nông sản ở An Giang hiện nay

Trần Văn Hiển
Trường Đại học Văn Lang.

(GDLL) - Liên kết chuỗi giá trị nông sản là mô hình kinh tế đem lại lợi ích thiết thực cho các chủ thể tham gia và góp phần tích cực vào chuyển đổi cơ cấu sản xuất, phát triển nông nghiệp bền vững trong điều kiện cạnh tranh toàn cầu. Trên cơ sở những nhận thức cơ bản về chuỗi giá trị nông sản: khái niệm, hình thức, sơ đồ, mô hình liên kết…, bài viết khái quát kết quả, vai trò của hợp tác xã trong liên kết chuỗi giá trị nông sản và đề xuất một số giải pháp phát huy vai trò của hợp tác xã trong liên kết chuỗi giá trị nông sản ở An Giang.

Hội thảo "Luật hợp tác xã 2023 và những định hướng chính sách hỗ trợ phát triển khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã" (nguồn: vnanet.vn)

 

Đặt vấn đề

An Giang là một trong những tỉnh thuộc Đồng bằng sông Cửu Long đã sớm chú trọng triển khai các mô hình liên kết chuỗi giá trị nông sản. Trong đó, hợp tác xã (HTX) là một chủ thể quan trọng có tác động lớn đến hiệu quả của liên kết chuỗi giá trị nông sản và góp phần tích cực vào chuyển đổi cơ cấu sản xuất, thực hiện phát triển nông nghiệp bền vững của tỉnh. 

1. Hợp tác xã trong liên kết chuỗi giá trị nông sản

Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, được thành lập theo nguyên tắc tự nguyện của các thành viên và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý. Vai trò của HTX không chỉ là sản xuất kinh doanh như các tổ chức kinh tế khác, mà quan trọng hơn là trợ giúp thành viên phát triển kinh tế; giải quyết, xử lý các vấn đề xã hội trong cộng đồng thành viên đặt ra, làm gia tăng địa vị, lợi ích xã hội của thành viên; nâng cao năng lực hợp tác, liên kết để cùng nhau xây dựng, phát triển HTX.

Về liên kết chuỗi giá trị, theo cách tiếp cận của GTZ (Deutsche Gesellschaft für Technische Zusammenarbeit – Đức), chuỗi giá trị là một loạt các hoạt động kinh doanh có quan hệ với nhau, từ việc cung cấp các giá trị đầu vào cụ thể cho một sản phẩm nào đó, đến sơ chế, chuyển đổi, marketing, cuối cùng là bán sản phẩm đó cho người tiêu dùng[3].

Theo Tổ chức Nông lương Liên Hợp Quốc (FAO) 2010, chuỗi giá trị nông sản bao gồm tập hợp các tác nhân và hoạt động đưa một sản phẩm nông sản từ sản xuất đến người tiêu dùng cuối cùng, theo đó, giá trị của sản phẩm được gia tăng trong mỗi khâu trung gian. Một chuỗi giá trị có thể là một liên kết dọc hay một mạng lưới các tác nhân độc lập với nhau vào các khâu chế biến, đóng gói, bảo quản, vận chuyển, và phân phối[4].

Định nghĩa này cho thấy liên kết chuỗi giá trị nông sản bao gồm chuỗi những hoạt động theo thứ tự từ sản xuất đến tiêu dùng cuối cùng với sự tham gia của nhiều chủ thể gồm các hộ nông dân, trang trại, HTX, các doanh nghiệp... vào các khâu sản xuất, thu gom, chế biến, bán buôn, bán lẻ... và tại mỗi khâu, giá trị của sản phẩm được tăng lên. 

Theo đó, chuỗi giá trị nông sản được thực hiện với 3 hình thức chủ yếu: 1) Chuỗi không liên kết hay quản trị bằng quan hệ thị trường; 2) Chuỗi giá trị thực hiện thông qua các hợp đồng thu mua, hợp đồng liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản, hợp đồng đầu tư... 3) Chuỗi giá trị dựa trên mối quan hệ giữa doanh nghiệp đứng đầu và các nhà cung ứng, trong đó tập hợp những hoạt động do nhiều người khác nhau thực hiện (Nhà cung cấp đầu vào, người thu gom, nhà chế biến, công ty, người bán sỉ, người bán lẻ,..) để sản xuất ra một sản phẩm sau đó bán cho người tiêu dùng.

Chuỗi giá trị này bao gồm: i) Một chuỗi các quá trình sản xuất từ đầu vào đến đầu ra; ii) Một sự sắp xếp có tổ chức, kết nối và điều phối người sản xuất, HTX, doanh nghiệp và nhà phân phối liên quan đến một sản phẩm cụ thể; iii) Một mô hình kinh tế trong đó HTX là một chủ thể có vị thế, vai trò quan trọng, làm tăng lợi thế, sức mạnh của các hộ nông dân trong cạnh tranh trên thị trường.

2. Liên kết chuỗi giá trị nông sản ở An Giang và vai trò của hợp tác xã

Trong 3 hình thức liên kết chuỗi giá trị nông sản ở An Giang, HTX tham gia liên kết theo hình thức 2 và 3. Với hình thức 2, HTX đứng ra ký kết hợp đồng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm với doanh nghiệp cho các thành viên HTX, hộ nông dân. Từ 2011 đến 2018, mỗi năm có 10 - 14 HTX liên kết với 15 - 21 doanh nghiệp. Năm 2021 có 30 doanh nghiệp triển khai liên kết sản xuất thông qua 46 HTX, diện tích liên kết lúa (nếp) đạt 87.698ha, diện tích liên kết rau màu 3.981 ha, diện tích liên kết cây ăn trái 1.356 ha[5].

Với hình thức 3, chuỗi giá trị được thực hiện giữa doanh nghiệp đứng đầu với HTX và những nhà cung cấp đầu vào, người thu gom, nhà chế biến, người bán sỉ, người bán lẻ… để sản xuất và đưa sản phẩm đến người tiêu dùng. Doanh nghiệp đã kết hợp cùng các sở, ngành của Tỉnh và Ủy ban nhân dân các xã tổ chức vận động nông dân cùng hợp tác để thành lập mới 24 HTX nông nghiệp trong vùng nguyên liệu của tập đoàn. Trong đó, Doanh nghiệp đã cử nhân sự tham gia ban lãnh đạo của các HTX, cử đội ngũ “ba cùng” (cùng ăn - cùng ở - cùng làm) phối hợp với hội đồng quản trị HTX hướng dẫn thành viên HTX về kỹ thuật, quy trình canh tác theo hướng hiện đại, khoa học.

Liên kết chuỗi giá trị với sự tham gia của HTX đã góp phần hình thành các vùng chuyên canh với các thương hiệu nông sản hàng hóa đặc trưng, phát huy thế mạnh của mỗi vùng, miền, địa phương. Điển hình như vùng chuyên canh sản xuất lúa gạo tại các huyện: Thoại Sơn, Châu Phú, Tri Tôn, Phú Tân, Châu Thành; Vùng liên kết sản xuất thủy sản (cá tra) quy mô lớn tại TP. Long Xuyên, Châu Phú; Vùng liên kết chăn nuôi heo tại huyện Tri Tôn, Tịnh Biên và Châu Phú; Vùng liên kết chuyên canh trồng xoài tại huyện Chợ Mới, An Phú; Vùng liên kết trồng chuối cấy mô tại huyện Tri Tôn, Thoại Sơn...

Từ kết quả trên cho thấy vai trò của HTX trong liên kết chuỗi giá trị nông sản ở An Giang được thể hiện ở những điểm tích cực sau:

Thứ nhất, là chủ thể sản xuất kinh doanh nông nghiệp, các HTX đã tổ chức được các dịch vụ đầu vào, đầu ra của kinh tế hộ nông dân, tập trung sản xuất, tạo ra các sản phẩm phục vụ nhu cầu đời sống xã hội, hình thành vùng nguyên liệu lớn cho doanh nghiệp xuất khẩu. 

Thứ hai, là chủ thể tham gia chuỗi giá trị, các HTX giúp nông dân yên tâm sản xuất, giảm chi phí đầu vào, hạn chế được tình trạng được mùa, mất giá; đồng thời chủ động về nguồn hàng, có nhiều cơ hội mở rộng quy mô sản xuất, mang lại lợi ích thiết thực cho thành viên. Các doanh nghiệp có vùng nguyên liệu ổn định, nguồn cung ứng nông sản lớn. 

Thứ ba, trong chuỗi giá trị, ở mỗi khâu mà HTX tham gia thực hiện đều tạo ra giá trị gia tăng, làm tăng giá trị sản phẩm, đáp ứng yêu cầu của thị trường cạnh tranh toàn cầu hiện nay.

Thứ tư, tham gia liên kết chuỗi giá trị, HTX là phương thức sản xuất tốt nhất để thực hiện vai trò liên kết giữa 5 nhà: Nhà nước, Nhà khoa học, Nhà doanh nghiệp, Nhà nông, Nhà ngân hàng và là “mắt xích” quan trọng trong phát triển sản xuất theo chuỗi giá trị gắn với ứng dụng công nghệ cao… bảo đảm cho nông nghiệp phát triển bền vững.

Về hạn chế: Vai trò cầu nối của HTX trong thực hiện liên kết chưa được phát huy đầy đủ. Việc phát triển các HTX gắn với tổ chức sản xuất nông nghiệp theo chuỗi giá trị chưa đồng bộ, khả năng cạnh tranh của một số mặt hàng nông sản trên thị trường chưa cao. Số HTX chủ động, sáng tạo trong đổi mới và ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất kinh doanh chưa nhiều; trình độ, năng lực quản trị của HTX chưa đủ để vượt qua thách thức, áp lực cạnh tranh trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập quốc tế, tác động của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Nguyên nhân của những hạn chế, chủ yếu từ năng lực, nhận thức của HTX về liên kết chuỗi giá trị; quan hệ lợi ích kinh tế giữa doanh nghiệp, HTX và nông dân thành viên HTX còn có bất cập, liên kết chưa bền vững.

3. Một số giải pháp phát huy vai trò của hợp tác xã trong liên kết chuỗi giá trị nông sản ở An Giang

3.1. Nâng cao sức mạnh, uy tín để HTX trở thành trung tâm tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị, phát huy lợi thế sinh thái của từng vùng, địa phương

Sức mạnh, uy tín là điều kiện quan trọng đảm bảo cho vị thế, vai trò của HTX trong liên kết chuỗi giá trị, lợi thế sinh thái của từng vùng, địa phương của Tỉnh được phát huy. Xây dựng và hỗ trợ HTX phát triển trở thành trung tâm liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp để thực hiện chuỗi giá trị từ đầu vào đến đầu ra, gắn với ứng dụng công nghệ cao - đây là hướng đi cốt lõi, bảo đảm cho liên kết sản xuất bền vững. 

Để HTX phát triển, liên kết rộng rãi các hộ sản xuất, trang trại, doanh nghiệp, các hiệp hội cần tập trung nguồn lực để phát triển HTX thành trung tâm tổ chức sản xuất, cung ứng dịch vụ, tư vấn kỹ thuật nông nghiệp cho cả vùng,..

Xây dựng, phát triển HTX mới, mở rộng lĩnh vực hoạt động, đa dạng hóa sản phẩm, thực hiện liên kết theo chiều dọc và chiều ngang, hoặc phát triển thành loại hình doanh nghiệp trực thuộc HTX. Trong đó, người dân có thể lựa chọn góp vốn bằng tiền hoặc quyền sử dụng đất, cùng sản xuất kinh doanh và chia sẻ lợi nhuận; nông dân có thể cho thuê đất hoặc sản xuất theo đặt hàng của doanh nghiệp, hình thành vùng sản xuất quy mô lớn đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp với chuỗi giá trị khép kín của sản phẩm.

Quy hoạch phát triển các hệ sinh thái HTX ngành hàng lúa gạo, rau màu, xoài, cá tra, bò, heo. Xây dựng vùng sản xuất hàng hóa tập trung quy mô lớn với cây lúa 1.000 ha; diện tích sản xuất giống cá tra tối thiểu là 20 ha, nuôi thương phẩm 200 ha; bò sữa và heo tập trung phát triển ở 02 huyện Tri Tôn và Tịnh Biên[6]. Các vùng này thực hiện liên kết chuỗi giá trị, trong đó HTX trở thành đầu mối liên kết chính trong sản xuất và tiêu thụ nông sản với tiêu chuẩn, chất lượng, đảm bảo an toàn thực phẩm, tiến tới sản xuất theo nhu cầu và đặt hàng của thị trường. 

Phát triển mới và nâng cao chất lượng và hiệu quả HTX, thực hiện đa dạng dịch vụ để đủ điều kiện, năng lực đảm nhiệm toàn bộ các khâu từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, trở thành đơn vị tổ chức sản xuất của khu vực. Gắn kết hợp tác “5 nhà” trong xây dựng và hình thành chuỗi giá trị nông sản bền vững.

3.2. Đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ phát triển hợp tác xã

Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực HTX đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số hiện nay. Hỗ trợ để những người có trình độ đại học, cao đẳng về làm việc tại các HTX, trong đó, chú trọng chức danh giám đốc HTX bảo đảm đủ năng lực để điều hành, quản trị HTX hiệu quả. Đồng thời, phải chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trẻ, có trình độ, tư duy sáng tạo, nhanh nhạy trong việc tiếp cận thị trường, phù hợp với yêu cầu phát triển của kỷ nguyên số. 

3.3. Đẩy nhanh ứng dụng khoa học công nghệ, nâng cao giá trị gia tăng của nông sản 

Tăng cường hỗ trợ nghiên cứu, chuyển giao và nhận chuyển giao ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất - chế biến - tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Khuyến khích các HTX ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất theo chuỗi giá trị như nông nghiệp công nghệ cao, công nghệ thông tin, kỹ thuật số…; trọng tâm là công nghệ sau thu hoạch và chế biến sản phẩm, bảo đảm yêu cầu về an toàn chất lượng, truy xuất nguồn gốc và nâng cao giá trị gia tăng của nông sản. 

3.4. Tăng cường xúc tiến thương mại và thu hút đầu tư, hoàn thiện chuỗi giá trị khép kín từ sản xuất đến chế biến, tiêu thụ

Xây dựng chiến lược quảng bá, giới thiệu sản phẩm đến người tiêu dùng, các doanh nghiệp trong và ngoài nước; xây dựng, vận hành và phát triển website quảng bá sản phẩm chủ lực, ứng dụng khoa học công nghệ vào quản lý cơ sở dữ liệu và thông tin giá cả, thị trường, thực hiện chuyển đổi số trong nông nghiệp trên nền tảng phát triển kinh tế số của Tỉnh.

Có chính sách thu hút các doanh nghiệp đầu tư, tham gia vào hoạt động của HTX, cùng quản lý điều hành, đưa công nghệ tiên tiến vào sản xuất và thiết lập hệ thống liên kết các HTX. Thực hiện kết nối cung cầu theo chuỗi giá trị nông sản giữa HTX với các siêu thị, cửa hàng, hệ thống phân phối hiện đại tại các thành phố lớn trong cả nước. Hỗ trợ các HTX xây dựng các điểm truy cập thông tin và tìm kiếm thị trường, giao dịch nông sản qua trang thương mại điện tử. 

3.5. Có cơ chế, chính sách huy động nguồn lực hỗ trợ hợp tác xã phát triển, hỗ trợ chuỗi liên kết giá trị

Xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù của Tỉnh đối với HTX thực hiện liên kết chuỗi giá trị. Đó là các chính sách hỗ trợ về vốn; chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng, đổi mới công nghệ, máy móc, trang thiết bị; chính sách hỗ trợ đưa các sản phẩm trong chuỗi giá trị tiếp cận, xâm nhập vào hệ thống phân phối trong và ngoài nước. 

Tập trung đầu tư nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển nông nghiệp, liên kết chuỗi giá trị nông sản. Đẩy mạnh cơ giới hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. 

3.6. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của chính quyền, vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội đối với phát triển HTX, liên kết chuỗi giá trị

Các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền các cấp trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo phát triển HTX gắn với tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị ngành hàng chủ lực của địa phương. Quán triệt và triển khai thực hiện Chương trình hành động của Tỉnh ủy, Kế hoạch của Ủy ban nhân dân tỉnh về phát triển hợp tác xã gắn với tổ chức sản xuất nông nghiệp theo chuỗi giá trị ngành hàng chủ lực tỉnh An Giang giai đoạn 2021 – 2025”.

Nâng cao trách nhiệm, vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong tuyên truyền, vận động mọi tầng lớp nhân dân nhận thức được tầm quan trọng của hợp tác xã, liên kết chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Kết luận

Liên kết chuỗi giá trị nông sản ở An Giang là yêu cầu tất yếu trong quá trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp với HTX là một chủ thể không thể thiếu trong liên kết, mở ra hướng đi mới cho sản xuất nông nghiệp bền vững. Để phát huy vai trò, vị thế của HTX trong liên kết chuỗi giá trị, những năm tới cần tập trung vào việc tạo môi trường, điều kiện thúc đẩy HTX phát triển, nhân rộng các mô hình liên kết có hiệu quả, hướng tới liên kết chuỗi giá trị toàn cầu, đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới.

Tài liệu tham khảo:

[1] Nhật Minh (2022), Nông nghiệp An Giang chuyển hướng liên kết sản xuất, phát triển bền vững, https://scp.gov.vn

[2] PV (2022), Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc dự Lễ khánh thành Nhà máy gạo xuất khẩu quy mô lớn ở An Giang, https://baodantoc.vn

[3] Farmvina (2022), Chuỗi Giá Trị Nông Sản: Một số khái niệm, htpps://nongnghiep.farmvina.com

[4] Starlinks (2010), Chuỗi giá trị nông sản và những vấn đề logistics trong ngành nông sản, https://starlinks.com.vn

[5] Trọng Tín (2022), An Giang phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã trong nông nghiệp, Báo An Giang (Online), Ngày 14/9/2022.

[6] Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang (2020), Quyết định số 962/QĐ-UBND, Phê duyệt Kế hoạch phát triển hợp tác xã và liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp năm 2020.

Đọc thêm

Hành trình từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa cộng sản của đồng chí Nguyễn Chí Diểu

Tác giả: Nguyễn Thị Minh Thùy

(GDLL) - Nguyễn Chí Diểu (1908-1939), một trong những đảng viên thuộc lớp đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhà lãnh đạo tiền bối tiêu biểu của Đảng và cách mạng Việt Nam. Cuộc đời đồng chí là tấm gương cao đẹp của người cộng sản hết lòng vì nước, vì dân. Bài viết tìm hiểu quá trình chuyển biến từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa cộng sản, qua đó thấy được sự kiên định, vì nước vì dân của đồng chí.

30 năm quan hệ hợp tác Việt Nam - Hàn Quốc (1992 - 2022): Thành tựu và triển vọng

Tác giả: NGUYỄN VĂN ĐỨC - NGUYỄN THỊ THÚY

(GDLL) - Trải qua 30 năm, quan hệ Việt Nam và Hàn Quốc đã có bước phát triển toàn diện, bền vững, mang lại lợi ích cho cả hai dân tộc. Bài viết khái quát những thành tựu tốt đẹp đã gặt hái được trong quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc 30 năm qua (1992 - 2022) và chỉ ra một số hạn chế còn tồn tại. Từ đó, đưa ra định hướng, khuyến nghị nhằm thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Hàn Quốc lên tầm cao mới.

Phát huy vai trò của các tổ chức khoa học và công nghệ ngoài công lập để góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Tác giả: PGS. TS. Phạm Ngọc Linh

(TG) - Sự phát triển nhanh chóng của các tổ chức KH&CN ngoài công lập trực thuộc LHHVN đã nâng cao vai trò của LHHVN trong việc tập hợp đoàn kết trí thức KH&CN phục vụ mục tiêu CNH, HĐH đất nước. Các tổ chức KH&CN này được đánh giá là nhân tố mới ở Việt Nam trong công tác tham gia xã hội hóa các hoạt động KH&CN, GD&ĐT, chăm sóc sức khỏe nhân dân, phát triển cộng đồng, xóa đói giảm nghèo và bảo vệ môi trường.

Chuyển đổi số trong xây dựng nông thôn mới hướng tới mô hình làng thông minh

Tác giả: TS ĐỖ THỊ PHƯƠNG HOA

(LLCT) - Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang mở ra một kỷ nguyên mới trong sự phát triển của nhân loại. Chuyển đổi số trở thành xu hướng phát triển của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Bài viết phân tích chủ trương về chuyển đổi số trong nông nghiệp, nông thôn và xây dựng làng thông minh ở nước ta, chỉ ra thực trạng một số mô hình làng thông minh hiện nay, từ đó đề xuất giải pháp tăng cường chuyển đổi số trong xây dựng nông thôn mới, hướng tới nông thôn thông minh trong thời gian tới.

Vai trò của lực lượng dân quân tự vệ Hà Nội trong chiến dịch "Điện Biên Phủ trên không" tháng 12 năm 1972

Tác giả: NGUYỄN ĐÌNH QUỲNH - LÊ TRỌNG ĐẠI

(GDLL) - Trong quá trình đấu tranh cách mạng cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Dân quân tự vệ luôn là lực lượng dự bị hùng hậu cho bộ đội chủ lực và xung kích trong lao động sản xuất, chiến đấu, phục vụ chiến đấu, là lực lượng nòng cốt cho xây dựng nền quốc phòng toàn dân và thế trận chiến tranh nhân dân. Bài viết khái quát diễn biến chính của trận “Điện Biên Phủ trên không” ở Hà Nội, làm rõ vai trò quan trọng của lực lượng Dân quân tự vệ Hà Nội trong bảo vệ địa phương, địa bàn cơ sở, rút ra một số kinh nghiệm vận dụng về vai trò của lực lượng Dân quân tự vệ Hà Nội.