NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
Thứ
nhất, cần phải
xây dựng nhà nước hợp hiến, có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ.
Với
thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhân dân Việt Nam đã đập tan xiềng
xích của chế độ thực dân. Ngày 2/9/1945, thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch
Hồ Chí Minh long trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa. Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời (ngày
3/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định một trong sáu nhiệm vụ cấp bách là
phải có một Hiến pháp dân chủ. Người khẳng định: “Trước chúng ta đã bị chế độ
quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế,
nên nước ta không có hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân
chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng
sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân
trai gái mười tám tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân biệt giàu
nghèo, tôn giáo, dòng giống”(1), “Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do
lựa chọn những người có tài, có đức để gánh vác công việc nước nhà. Trong cuộc
Tổng tuyển cử, hễ là những người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử,
hễ là công dân thì có quyền đi bầu cử... Do Tổng tuyển cử mà toàn dân bầu ra
Quốc hội. Quốc hội sẽ cử ra Chính phủ. Chính phủ đó thật là Chính phủ của toàn
dân”(2). Ngày 6/1/1946, cuộc Tổng tuyển cử đã thành công. Tháng 3/1946,
Chính phủ hợp hiến đầu tiên đã được Quốc hội cử ra, do Hồ Chí Minh làm Chủ
tịch. Đây là cơ sở pháp lý, hợp hiến buộc các lực lượng đồng minh phải thương
thảo với Chính phủ do Hồ Chí Minh đứng đầu.
Thứ
hai, để
xây dựng một nhà nước vững mạnh, cần chú trọng nâng cao vai trò của pháp luật
trong các hoạt động của đời sống xã hội.
Từ
rất sớm, năm 1919, trong bản Yêu sách của nhân dân An Nam gồm 8 điểm, Nguyễn Ái Quốc
- Hồ Chí Minh Người đã yêu cầu Chính phủ Pháp và chính quyền thuộc địa ban
hành hiến pháp, bãi bỏ chế độ cai trị bằng các sắc lệnh, thay thế vào đó bằng
các đạo luật, “Cải cách nền pháp lý ở Đông
Dương bằng cách cho người bản xứ cũng được quyền hưởng những đảm bảo về mặt
pháp luật như người Âu châu; xoá bỏ hoàn toàn các tòa án đặc biệt dùng làm công
cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam”(3).
Sau nhiều năm hoạt động cách mạng ở các nước phương Tây,
Người đã tiếp cận nhiều luồng tư tưởng và các mô hình nhà nước pháp quyền, từ đó
nhận thấy mô hình nhà nước pháp quyền có những ưu điểm nổi trội so với mô hình
nhà nước chuyên chế đã ngự trị hàng nghìn năm ở nhiều nơi, trong đó có Việt Nam
thời kỳ phong kiến và thuộc địa nửa phong kiến. Từ đó, tư tưởng của Người về
xây dựng nhà nước pháp quyền dần được hình thành; Người viết: “Bảy xin hiến pháp ban
hành. Trăm đều phải có thần linh pháp quyền”(4).
Với
cương vị là Chủ tịch nước, Người đã hai lần được cử làm Trưởng ban dự thảo Hiến
pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959. Những
quyền và tự do dân chủ của người dân luôn được coi là các quyền hiến định, cao
cả và thiêng liêng đối với mỗi con người, mỗi công dân. Hiến pháp năm 1959
quy định: “Tất cả các nhân viên cơ quan Nhà nước đều phải trung thành với chế
độ dân chủ nhân dân, tuân theo Hiến pháp và pháp luật”.
Bên cạnh đó, Người xác định con đường xây dựng nhà nước pháp
quyền là nhà nước có hệ thống pháp luật dân chủ, thể hiện ý chí, lợi ích của
nhân dân. Trong tác phẩm Thường thức chính trị, Người nhấn mạnh: “Cách mạng Tháng Tám
thành công, ta lập ra Chính phủ mới, quân đội, công an, tòa án, pháp luật mới
của nhân dân để chống kẻ địch trong và ngoài, và để giữ gìn quyền lợi của nhân
dân”(5). Tính dân chủ của pháp luật không chỉ thể hiện ở chỗ nội
dung các đạo luật ghi nhận quyền và lợi ích của nhân dân mà còn thể hiện ở chỗ
nhân dân trực tiếp tham gia xây dựng các đạo luật. Việc xây dựng hệ thống pháp
luật phải xuất phát từ ý kiến của nhân dân, có sự tham gia đóng góp của các cơ
quan, đoàn thể và mọi tầng lớp nhân dân. Để bảo đảm pháp luật thực sự của nhân
dân, trong quá trình xây dựng Hiến pháp, Hồ Chí Minh yêu cầu: “Bản Hiến pháp
của chúng ta sẽ thảo ra chẳng những phải tiêu biểu được các nguyện vọng của
nhân dân miền Bắc, mà còn phải là một mục tiêu phấn đấu cho đồng bào miền Nam(6). Để Hiến pháp và pháp luật đi
vào cuộc sống, Người yêu cầu phải xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát việc thực
hiện; đồng thời nhấn mạnh phải hết sức chú trọng việc tuyên truyền trong quần
chúng nhân dân vấn đề công dân sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp
luật; đòi hỏi cán bộ, công chức phải không ngừng học tập nâng cao trình độ
năng lực công tác, am hiểu pháp luật và thực hiện nghiêm minh, vừa tăng cường
pháp luật, vừa đẩy mạnh giáo dục đạo đức công vụ và đạo đức công dân.
Ba
là, nhà
nước pháp quyền là nhà nước phải có sự kết hợp giữa vai trò của đạo đức với
pháp luật.
Đây
là nét đặc sắc, sáng tạo của Hồ Chí Minh trong các quan điểm về xây dựng nhà
nước. Với trí tuệ và kinh nghiệm của một chính trị gia uyên bác, Người đã chắt
lọc, kế thừa và phát triển các quan niệm trên và kết hợp khéo léo vai trò của
đạo đức và của pháp luật.
Trong Tuyên ngôn độc lập năm 1945, Hồ Chí Minh
khẳng định: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc
nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”(7). Bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946
của nước ta cũng đã khẳng định: “Tất cả quyền bính trong nước là của
toàn thể nhân dân”. Như vậy, "ngay từ khi mới lập nước, pháp luật của nước
ta đã vừa mang những giá trị văn minh, đạo đức phổ quát của nhân loại về quyền
được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc, vừa mang những giá trị cao
đẹp, nhân văn thể hiện tính ưu việt của chế độ XHCN, đó là nhà nước của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân(8).
Hồ
Chí Minh đã nhiều lần giải thích mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật;
chỉ rõ: “Sửa chữa sai lầm, cố nhiên cần
dùng cách giải thích thuyết phục, cảm hóa, dạy bảo. Song không phải tuyệt nhiên
không dùng xử phạt. Lầm lỗi có việc to, việc nhỏ. Nếu nhất luật không xử phạt
thì sẽ mất cả kỷ luật, thì sẽ mở đường cho bọn cố ý phá hoại. Vì vậy, hoàn toàn
không dùng xử phạt là không đúng. Mà chút gì cũng dùng đến xử phạt cũng không
đúng”(9). Trong bản Di chúc (năm
1968), Người nêu rõ: “Đối với những nạn nhân của chế độ xã hội cũ, như trộm
cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu,… thì Nhà nước phải dùng vừa giáo dục, vừa phải
dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những người lao động lương thiện”(10).
Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước
phải thượng tôn pháp luật, thực hành đạo đức công vụ, phải tu dưỡng đạo đức
cách mạng, trung với nước, hiếu với dân; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư; phải coi đạo
đức cách mạng như phẩm chất đầu tiên của mình; “Người cách mạng phải có đạo
đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”(11). Nhiều
bài nói, viết về của Người đã khẳng định “phải tẩy sạch nạn tham ô,
lãng phí và bệnh quan liêu”(12); trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước, phải kiên quyết chống cho được tham ô, lãng phí, quan liêu.
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XHCN CỦA NHÂN DÂN, DO NHÂN DÂN, VÌ NHÂN DÂN
Xuất phát từ yêu cầu, đòi hỏi từ thực tiễn, việc tiếp tục vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật trong tiến trình xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN là thực sự cần thiết, bảo đảm thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi
mới hệ thống chính trị ở nước ta.
Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung, phát
triển năm 2011) xác định, mô hình xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng
dựa trên tám đặc trưng, trong đó, xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là một đặc trưng cơ bản. Đến Hiến pháp năm 2013, tư tưởng về Nhà nước pháp
quyền XHCN của Đảng được thể chế hóa rõ ràng và đầy đủ tại Điều 2: Nhà nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân.
Đại hội XIII của Đảng tiếp tục đề ra những
định hướng, quan điểm, giải pháp đột phá cho tiến trình xây dựng và hoàn thiện
nhà nước pháp quyền, xác định đây là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống
chính trị. Đồng thời, Đảng ta nêu rõ, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền XHCN phải tiến hành đồng bộ, gắn với đổi mới hệ thống chính trị
và đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội; xác định 13 định hướng phát triển đất nước
giai đoạn 2021-2030, trong đó có định hướng xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền XHCN.
Đặc biệt, Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 9/11/2022 của Hội nghị
Trung ương 6 khóa XIII, về “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới” (Nghị quyết số 27-NQ/TW) đã phân tích tình hình công cuộc xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng qua hơn 35 năm đổi
mới và đã đạt những thành tựu quan trọng, cụ thể: 1) Nhận thức, lý
luận về nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam ngày càng thống nhất, đầy đủ và sâu sắc hơn; hệ thống pháp luật đã được
hoàn thiện một bước cơ bản. Cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ
quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp ngày càng
rõ hơn và có chuyển biến tích cực; 2) Việc tổ chức và hoạt động của
Quốc hội có nhiều đổi mới, chất lượng được nâng cao. Hoạt động của Chính phủ chủ
động, tích cực, tập trung hơn vào quản lý, điều hành vĩ mô, tháo gỡ rào cản,
kiến tạo phát triển. Tổ chức bộ máy của tòa án, viện kiểm sát, cơ quan điều
tra, cơ quan thi hành án, cơ quan bổ trợ tư pháp tiếp tục được kiện toàn, chất
lượng được nâng lên; 3) Quyền con người, quyền công dân theo Hiến
định tiếp tục được cụ thể hóa bằng pháp luật và thực hiện tốt hơn trên thực
tế; 4) Mô hình nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam không ngừng được hoàn thiện, vận hành theo cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ”. Nghị quyết số 27-NQ/TW cũng đã chỉ rõ, tổ
chức bộ máy nhà nước, hệ thống pháp luật còn một số bất cập, chưa đáp ứng yêu
cầu thực tiễn; quyền lực nhà nước chưa được kiểm soát hiệu quả, cơ chế kiểm
soát quyền lực chưa hoàn thiện; vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân chưa được phát huy mạnh mẽ.
Trong thời gian tới, để phát huy những giá trị cốt lõi của tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật trong quá trình xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân, cần tiếp tục thực hiện chất lượng, hiệu quả một số
nhiệm vụ sau:
Thứ
nhất, cùng với những nội dung tư tưởng khác, tiếp
tục đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến và quán triệt những giá trị cốt lõi của
tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, để những giá trị tư
tưởng của Người ngày càng thấm sâu vào nhận thức và hành động của mỗi cán
bộ, công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân; tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục, tạo sự thống nhất nhận thức về 8 đặc trưng cơ bản của Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Bên cạnh đó, tiếp tục thực hiện có
hiệu quả Kết luận số 01-KL/TW ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục thực hiện
Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.
Thứ
hai, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam là nhiệm vụ trọng tâm của hệ thống chính trị.
Củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Thực sự thấm
nhuần lời dạy của Bác: “không được rời xa dân chúng. Thể chế hóa đầy đủ và thực
hiện đúng đắn, hiệu quả cơ chế nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân
chủ trực tiếp, dân chủ đại diện. Rời xa dân chúng là cô độc. Cô độc thì nhất
định thất bại”(13). Phát huy hơn nữa vai trò của nhân dân trong
thực hành dân chủ và xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, hiệu lực, hiệu quả.
Thứ
ba, tiếp tục thể chế hóa, kịp thời, đầy đủ hệ thống quan
điểm, chủ trương của Đảng và quy định của Hiến pháp về quyền con người, quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật,
cần không ngừng quán triệt sâu sắc luận điểm “việc gì có lợi cho dân phải hết sức
làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”(14).
Thứ
tư, xây dựng hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân
đạo, đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, ổn định, khả
thi để tiếp cận, đủ khả năng điều chỉnh các quan hệ xã hội, lấy lợi ích hợp
pháp, chính đáng của người dân, tổ chức doanh nghiệp làm trung tâm. Tiếp tục
đẩy mạnh cải cách hành chính, trọng tâm là nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức; tổ chức bộ máy, công vụ, công chức, hành chính điện tử và
chuyển đổi số.
Thứ
năm, nghiêm túc trong thực hiện đúng và đầy đủ
những định hướng lớn của Đảng về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền XHCN thể hiện trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Tiếp tục
xây dựng Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, đại diện
cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất;
nghiên cứu, làm rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước; đổi mới tổ chức
và hoạt động của Chính phủ, chính quyền địa phương theo hướng tinh gọn, hoạt
động hiệu lực, hiệu quả.
Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
là một bước đột phá trong tư duy về xây dựng nhà nước trong thời kỳ đổi mới của
Đảng ta, dựa trên nền tảng kế thừa, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về
nhà nước và pháp luật. Giá trị cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước
và pháp luật đã, đang và sẽ tiếp tục soi sáng quá trình xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
(theo tuyengiao.vn)
(1)
(2) (5) (7) (14)
Hồ Chí Minh: Toàn
tập, Nxb.
Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t.4, tr.7, 153, 262, 1, 51.
(3)
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.441, 473.
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.510.
(8) Xem: Nguyễn Cao Siêng: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
việc kết hợp giữa đạo đức và pháp luật trong quản lý xã hội Việt Nam hiện nay”, Tạp chí
Cộng sản điện tử, ngày
16/6/2021.
(9)
(11) (13)
Hồ Chí Minh: Toàn
tập, Sđd,
t.5, tr.323-324, 292, 278.
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.617.
(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 355