Chương trình nghệ thuật "Sao Độc lập" chào mừng Cách mạng
Tháng Tám và Quốc khánh 2/9 (nguồn: vnanet.vn)
Đặt vấn đề
Cách mạng Tháng
Tám 1945 thành công là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của nhân dân Việt Nam từ khi
có Đảng lãnh đạo, là mốc son chói lọi của phong trào giải phóng dân tộc trong
thời đại ngày nay. Hồ Chí Minh đã có một lộ trình miệt mài, kiên trì, bản lĩnh
chuẩn bị cho khát vọng cứu nước, giải phóng dân tộc trở thành hiện thực. Lộ
trình ấy bắt nguồn từ mục tiêu và hành động của người thanh niên Nguyễn Tất
Thành rời bến cảng Sài Gòn ra đi tìm đường cứu nước (1911) đến các hoạt động sôi
nổi trong phong trào cách mạng thế giới; chuẩn bị các điều kiện và thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam (2-1930); chủ động triệu tập, chủ trì Hội nghị Trung
ương tám (5-1941) với những quyết sách, chiến lược quan trọng có tính chất
quyết định thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
1. Định hình đường lối chiến lược, sách
lược cách mạng đúng đắn
Điều này
thể hiện rõ qua vai trò chủ động của Nguyễn Ái Quốc tại Hội nghị Trung ương 8.
Tháng 5-1941, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 họp tại Pác Bó (Cao Bằng), do
Nguyễn Ái Quốc chủ trì. Hội nghị nhận định nếu tấn công Liên Xô, phát xít Đức
sẽ bị tiêu diệt; cách mạng nhiều nước sẽ thành công; một loạt nước xã hội chủ
nghĩa sẽ ra đời. Vì vậy, nhiệm vụ chủ yếu trước mắt là chuẩn bị cho cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc, tập trung mũi nhọn vào bọn xâm lược Nhật - Pháp. Hội
nghị nhận định: “Cuộc cách mạng Đông Dương phải kết liễu bằng cuộc khởi nghĩa
võ trang”[1, tr.129].
Hội nghị đã phân tích kỹ những điều kiện khách quan và chủ quan thuận lợi cho
một cuộc tổng khởi nghĩa; dự đoán sự phát triển mau lẹ của tình hình, đồng thời
cũng nhấn mạnh ý thức tự lực, tự cường. Hội nghị chủ trương giải quyết vấn đề
dân tộc trong khuôn khổ mỗi nước Đông Dương, thành lập Việt Nam độc lập đồng
minh (gọi tắt là Việt Minh).Hội
nghị đặc biệt quan tâm đến vấn đề xây dựng Đảng, gấp rút đào tạo cán bộ, chú
trọng tăng thành phần công nhân trong Đảng.Hội
nghị Trung ương 8 có ý nghĩa lịch sử to lớn. Hội nghị đã hoàn chỉnh việc chuyển
hướng chỉ đạo chiến lược theo tư tưởng Hồ
Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, là sự trở về với quan điểm của
Nguyễn Ái Quốc đã nêu trong Chính cương vắn
tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng (năm 1930). Ngay sau Hội nghị, Người
viết thư “Kính cáo đồng bào” (6-6-1941) gửi đến các tầng lớp nhân dân cả nước,
chỉ rõ: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc
giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn
đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng…”[6, tr.230]. Hồ Chí
Minh cho xuất bản Báo Việt Nam độc lập (gọi
tắt là Việt lập), tuyên truyền,
vận động nhân dân hăng hái tham gia cách mạng. Người viết tác phẩm Lịch sử nước ta (năm 1942), nêu bật truyền
thống yêu nước, bất khuất, đoàn kết của dân tộc và đúc rút bài học về đoàn kết:
“Dân ta xin nhớ chữ đồng: Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh”[6, tr.266]. Phong
trào cách mạng tiếp tục phát triển mạnh mẽ với mục tiêu tập trung cho nhiệm vụ
trung tâm, trước tiên là giải phóng dân tộc. Theo đó hàng loạt các điều kiện
được chuẩn bị: xây dựng lực lượng chính trị (Mặt trận Việt Minh mà nòng cốt là
các đoàn thể cứu quốc); xây dựng lực lượng vũ trang (các đội du kích, thành lập
Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân); xây dựng căn cứ địa cách mạng (từ Cao
Bằng - Thái Nguyên - Tuyên Quang... đến Việt Bắc); tranh thủ mọi điều kiện có
thể để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo; tuyên truyền và thực hiện chủ trương
hợp tác với đồng minh; xây dựng sức mạnh nội lực và tranh thủ ngoại lực, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để khởi nghĩa giành chính quyền về
tay nhân dân.
Trong quá trình lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám, Đảng và Hồ Chí Minh đã nêu
cao mục tiêu đấu tranh giành độc lập dân tộc với ý chí tự lực, tự cường, giải
quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến,
giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc để tập hợp, đoàn kết nhân dân trong Mặt
trận Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc. Hồ Chí Minh luôn chú trọng xây dựng
Đảng vững mạnh về tư tưởng và tổ chức, thống nhất ý chí hành động trong toàn
Đảng.
2. Dự báo sớm, nhận định đúng thời cơ
cách mạng
Chớp đúng thời cơ
khởi nghĩa luôn là một vấn đề có ý nghĩa quyết định tới thắng lợi của mọi cuộc
cách mạng. Đối với Hồ Chí Minh, đó là cả một hành trình dài trong sự tổng hợp,
chiêm nghiệm hoạt động thực tiễn, quan sát để có được những nhận thức, đánh giá
đúng, sát hợp thực tiễn, có đủ thế, lực, thời thì mới có thể chớp thời cơ thành
công được.
Hồ Chí Minh rất
coi trọng vấn đề thời cơ, Người coi thời cơ là sức mạnh, là lực lượng. Theo
người, có lực, có thế còn phải biết tạo thời và tranh thời. Nếu hành động đúng
thời cơ thì lực lượng nhỏ cũng có thể giành thắng lợi lớn...
Ngay khi chiến
tranh thế giới thứ hai vừa bùng nổ (1939), Nguyễn Ái Quốc đã có những dự báo
tài tình về phong trào cách mạng thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Cuối
tháng 9-1944, sau khi được trả tự do từ nhà tù của chính quyền Tưởng Giới
Thạch, Hồ Chí Minh trở về nước, kịp thời hoãn cuộc khởi nghĩa đã được chuẩn bị
của Liên tỉnh Cao Bằng - Bắc Kạn - Lạng Sơn, vì nhận thấy trong nước nhiều nơi
chưa sẵn sàng khởi nghĩa, cán bộ, vũ khí còn phân tán, thiếu hẳn một lực lượng
nòng cốt.
Khi cục diện
chiến tranh có lợi cho phe Đồng minh chống phát xít. Thời cơ cho dân tộc Việt
Nam đang đến gần. Hồ Chí Minh viết Thư gửi
đồng bào toàn quốc (10-1944). Người phân tích tình hình và dự đoán
thời cơ của cách mạng Việt Nam: “Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong
một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh!”[6, tr. tr.538].
Ngoài đội các Cứu quốc quân được xây dựng từ sau khởi nghĩa
Bắc Sơn, đến ngày 22-12-1944, đội Việt Nam
Tuyên truyền giải phóng quân được Người quyết định thành lập và giao
cho đồng chí Võ Nguyên Giáp phụ trách. Thực hiện chỉ thị của Người “trận đầu
phải thắng”, chỉ sau vài ngày thành lập, Đội đã lập hai chiến công hạ đồn Phai
Khắt (25-12-1944) và Nà Ngần (26-12-1944). Chiến thắng đó có ảnh hưởng mạnh mẽ
đối với phong trào cách mạng của quần chúng.
Từ đầu tháng
5-1945, Hồ Chí Minh chuyển “đại bản doanh” của cách mạng từ Pác Bó (Cao Bằng)
về Tân Trào (Tuyên Quang), để thuận tiện cho việc chỉ đạo phong trào cách mạng
đang dâng cao trong cả nước. Người nhận định: Nay vùng giải phóng đã bao gồm
các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên và một
số vùng lân cận của các tỉnh Bắc Giang, Phú Thọ, Yên Bái, Vĩnh Yên, địa thế nối
liên nhau, nên lập thành một khu căn cứ cách mạng, lấy là Khu giải phóng. Chấp
hành chỉ thị của Người, Tổng bộ Việt Minh đã triệu tập Hội nghị cán bộ tuyên bố
thành lập Khu giải phóng, chuẩn
bị về mọi mặt làm bàn đạp để tiến lên giải phóng toàn quốc[5, tr.316].
Dự báo về thời cơ
còn được thể hiện sâu sắc hơn khi Hồ Chí Minh nhận định thời điểm để tiến hành
Tổng khởi nghĩa thành công chỉ khoảng nửa tháng tính từ khi Nhật tuyên bố đầu
hàng Đồng minh đến trước khi quân Đồng minh vào Việt Nam giải giáp phát xít
Nhật theo quyết định tại Hội nghị Pốtxđam. Đồng thời, Người cũng xác định cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam nhất
thiết phải đứng trong phong trào cách mạng thế giới, phải là một bộ phận của
lực lượng đồng minh chống chủ nghĩa phát xít, coi đó là một điều kiện quan
trọng bảo đảm sự thành công của cách mạng. Điều này thể hiện tư duy sáng tạo,
thực tiễn của Hồ Chí Minh trong giải quyết vấn đề cách mạng giải phóng dân tộc
với cuộc cách mạng vô sản chung của nhân loại tiến bộ trên thế giới theo nguyên
lý của chủ nghĩa Mác - Lênin trong cả lý luận và thực tiễn.
3. Phân hoá đối tượng, tranh thủ tối đa
hiệu quả sự giúp đỡ của các lực lượng
Là nhà hoạt động
chính trị, rất nhạy cảm với các vấn đề quốc tế, Hồ Chí Minh thấy lúc này cần
tranh thủ các lực lượng. Điều này thể hiện rất rõ không chỉ đối với các lực
lượng, thế lực bên ngoài (Quốc dân Đảng Trung Quốc, OSS, Việt Quốc, Việt Cách...)
mà ngay cả với các lực lượng trong nước. Chủ trương bắt liên lạc, hợp tác với
Đồng minh; thành lập mặt trận Việt Minh... là những minh chứng tiêu biểu cho
vai trò phân hóa đối tượng, tranh thủ tối đa hiệu quả sự giúp đỡ của các lực
lượng.
Tháng 3-1945,
thông qua việc cứu giúp một phi công Mỹ (bị lực lượng phòng không của Nhật Bản
bắn rơi) trở về Bộ Tư lệnh không quân Mỹ đóng tại Côn Minh (Trung Quốc), Hồ Chí
Minh đại diện Mặt trận Việt Minh đã tiếp xúc và thiết lập quan hệ với lực lượng
Mỹ. Người Mỹ cảm ơn Việt Minh những người Việt Nam có công cứu Trung úy phi
công Mỹ William Shaw. Người trả lời “đó là bổn phận của những người chống phát
xít, làm tất cả những việc gì có thể làm được để giúp đỡ Đồng minh”[5, tr. 311]. Từ
tháng 5-1945, một số quân nhân, sĩ quan Mỹ đã lần lượt đến Việt Bắc giúp Mặt
trận Việt Minh về điện đài, huấn luyện về chiến thuật quân sự và cách sử dụng
một số loại vũ khí; giúp Mặt trận Việt Minh một số vũ khí, thuốc men,... Sự
hoạt động của lực lượng Mỹ tại Việt Nam thể hiện sự sáng suốt của Hồ Chí Minh
trong việc tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ từ bên ngoài cho cách mạng Việt Nam,
đồng thời, thể hiện tinh thần quốc tế của nhân dân Việt Nam ngay từ đầu đã đứng
về phe Đồng minh chống phát xít, góp phần vào thắng lợi chung trong Chiến tranh
thế giới lần thứ hai.
Giữa những ngày
đầu năm 1945, nhất là sau sự kiện Nhật đảo chính Pháp và Chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng
ta ngày 12-3-1945 của Trung ương Đảng, cao trào kháng Nhật cứu nước,
không khí khởi nghĩa đã sục sôi khắp mọi miền
Tổ quốc, Hồ Chí Minh vẫn tiếp tục kiên trì tranh thủ tìm cách vừa có thể
phân hóa lại vừa có thể tranh thủ được các đối tượng ủng hộ của cách mạng. Đầu
tháng 4-1945, Hồ Chí Minh đến Bách Sắc - một thị trấn nhỏ nhưng có vị trí chiến
lược quan trọng ở phía Tây Nam tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc nhằm tranh thủ sự ủng
hộ của Trương Phát Khuê và liên lạc với tổ chức Việt Nam Cách mệnh Đồng minh
hội (Việt Cách). Hồ Chí Minh đã căn dặn Hoàng Quốc Việt - một thành viên của
đoàn lưu ý khi quan hệ hợp tác với các lực lượng rằng: “cần bí mật, cẩn thận,
cảnh giác”, “Chúng ta không hy vọng gì ở họ nhưng cần tranh thủ họ cho tới khi
không thể tranh thủ được”[8,
tr.92].
Cách mạng Tháng
Tám đã huy động được tuyệt đại đa số nhân dân tham gia, bao gồm các giai cấp,
tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo... kết thành một khối thống nhất cùng nhau
hành động để đánh Pháp, đuổi Nhật, cứu giống
nòi khỏi ách xâm lược. Đó là sức mạnh của toàn thể nhân dân được tổ chức trong
Mặt trận Việt Minh dưới sự lãnh đạo của Đảng. Không có tổ chức Mặt trận chặt
chẽ, thống nhất như thế thì không có được lực lượng chính trị hùng hậu để từ đó
xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang. Hồ Chí Minh nêu rõ: “Đoàn kết
trong Mặt trận Việt Minh, nhân dân ta đã làm Cách mạng Tháng Tám thành công,
lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”.
4. Kiên quyết, bản lĩnh kịp thời lãnh
đạo nhân dân tiến hành Tổng khởi nghĩa thành công
Bản lĩnh và tài
năng lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản
Việt Nam do Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo trong thắng lợi lịch sử của
Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 được chứng minh bằng nghệ thuật chớp thời cơ.
Việc lựa chọn đúng thời điểm để kêu gọi toàn dân Tổng khởi nghĩa xuất phát từ
thực lực của lực lượng cách mạng Việt Nam đã được dày công chuẩn bị, từ tinh
thần "đem sức ta mà giải phóng cho ta". Trong thời điểm lịch sử vô
cùng sôi động đó, Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước. Người viết:
“Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy
đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”[6, tr.596]. Đáp lời kêu gọi của Hồ Chí
Minh, căn cứ vào tinh thần Chỉ thị Nhật -
Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
với khát vọng độc lập tự do cháy bỏng, với quyết tâm to lớn, hơn 20 triệu nhân
dân Việt Nam từ Bắc tới Nam đã vùng lên làm cuộc Tổng khởi nghĩa oanh liệt trên
toàn quốc.
Hồ Chí Minh đã thể hiện quyết tâm sắt đá, dù phải đánh đổi nhưng cũng kiên
quyết phải thực hiện cho bằng được mục tiêu Người suốt đời theo đuổi. Thế nên
dù đang ốm rất nặng, nhưng khi Võ Nguyên Giáp vào thăm, Người khẳng định như
một mệnh lệnh rõ ràng, dứt khoát: “Bây giờ
thời cơ thuận lợi đang tới, dù phải hy sinh đến đâu, dù phải đốt cháy cả dãy
Trường Sơn cũng kiên quyết giành cho được độc lập”[3, tr.248]. Tổng
khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 đã diễn ra và giành thắng lợi nhanh chóng trong
vòng 15 ngày, trong đó thắng lợi ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn có ý nghĩa quyết định.
Ngày 2-9-1945, tại cuộc mít tinh lớn ở vườn hoa Ba Đình, Hà Nội, thay mặt Chính
phủ lâm thời, Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên
ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa.
Bên cạnh đó, Cách
mạng Tháng Tám 1945 có những tính chất tiêu biểu: Đây là cuộc khởi nghĩa có
tính chất nhân dân, chúng ta có thể nhìn vào số lượng vài nghìn cán bộ đảng
viên so với khoảng 22 triệu dân khi ấy nhưng Đảng đã huy động, lãnh đạo được
toàn dân đoàn kết đứng lên sẵn sàng hy sinh, chiến đấu và giành thắng lợi, thì
đó quả là sức mạnh vĩ đại của nhân dân, là niềm tin của dân vào Đảng, là mục
tiêu, ước nguyện của Đảng đã hoà quyện vào mục tiêu, khát vọng của nhân dân, Tổ
quốc.
Kết luận
Thật khó có thể
đề cập hết những vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trong Cách
mạng Tháng Tám. Song, qua những tư liệu lịch sử, phần nào có thể khái quát được vai trò quyết định của Hồ Chí Minh
đối với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám
1945. Đây là quá trình Người cùng Đảng và nhân dân tiến hành cuộc Tổng khởi
nghĩa thành công, đưa tới sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một bước ngoặt cách mạng chưa từng
có trên con đường phát triển của dân tộc Việt Nam.
Tài liệu tham khảo:
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
[2] Đầu nguồn (Hồi ký về Bác Hồ (1975), Nxb.
Văn học, Hà Nội.
[3] Võ Nguyên
Giáp (2018), Những chặng đường lịch sử,
Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
[4] Phạm Khắc Hoè
(1987), Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt
Bắc, Nxb. Thuận Hóa, Huế.
[5] Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2006), Hồ
Chí Minh - tiểu sử, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội.
[6] Hồ Chí Minh
(2011), Toàn tập, tập
3, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
[7] Hồ Chí Minh
(2011), Toàn tập, tập
7, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
[8] Hoàng Quốc
Việt (1990), Đường Bác Hồ chúng ta đi,
Nxb. Thanh niên, Hà Nội.