Bác Hồ với học sinh Trường Trưng Vương (Hà Nội) năm 1956. Ảnh: TL
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ KHUYẾN HỌC, KHUYẾN TÀI
Xác định “cán bộ là cái gốc của
mọi công việc”, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
thông qua quá trình học tập. Theo Người, học tập chính là một quá trình tiếp
thu tri thức để bổ sung, nâng cao trình độ nên mỗi người phải luôn học tập ở
trường, lớp và tự học suốt cuộc đời vì: “Học hành là vô cùng. Học càng nhiều,
biết càng nhiều càng tốt”(1). Vì
thế, mỗi người, nhất là người cán bộ, đảng viên nếu không muốn mình trở nên lạc
hậu, thì phải ra sức học tập bởi lẽ nếu không chịu khó học thì không tiến bộ
được. “Không tiến bộ là thoái bộ. Xã hội càng đi tới, công việc càng nhiều, máy
móc càng tinh xảo. Mình mà không chịu học thì lạc hậu, mà lạc hậu là bị đào
thải, tự mình đào thải mình”(2).
Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh còn đưa ra những chỉ dẫn có tính chất phương pháp luận
rất quan trọng về cách thức học tập có hiệu quả. Đó là, “muốn học tập có kết
quả tốt thì phải có thái độ đúng và phương pháp đúng… Phương châm, phương pháp
học tập là lý luận liên hệ với thực tế”(3).
Khi đến thăm một đơn vị, thấy
tình trạng cán bộ đảng viên, nhất là những người lớn tuổi có tư tưởng ngại học,
Bác đã bộc bạch: “Bác thường nghe nói có đồng chí 40 tuổi đã cho mình là già
nên ít chịu học tập. Nghĩ như vậy là không đúng, 40 tuổi chưa phải là già. Bác
đã 76 tuổi nhưng vẫn cố gắng học thêm. Chúng ta phải học và hoạt động cách mạng
suốt đời. Còn sống thì còn phải học, còn phải hoạt động cách mạng”(4) để nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên
phải ra sức học tập - học tập là nhu cầu tự thân suốt đời.
Cũng theo Chủ tịch Hồ Chí Minh,
học và tự học luôn gắn liền nhau và đó cũng chính là con đường tốt nhất để mỗi
người không ngừng tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao trình độ cho bản thân. Người
từng bộc bạch: “Về văn hóa: Tôi chỉ học hết tiểu học (...).
Về hiểu biết phổ thông: Năm 17 tuổi tôi mới nhìn thấy ngọn đèn điện lần đầu
tiên, 29 tuổi mới nghe rađio lần đầu”(5),
“tôi năm nay 71 tuổi, ngày nào cũng phải học. Việc lớn, việc nhỏ, tôi phải tham
gia. Công việc cứ tiến mãi. Không học thì không theo kịp. Công việc nó sẽ gạt
mình lại phía sau”(6). Đây là
những lợi bộc bạch rất chân thành được đúc rút ra từ chính cuộc đời của Người
nên có có sức lay động rất lớn đến mỗi cán bộ, đảng viên phải ra sức học tập
tinh thần tự học suốt đời của Bác.
Theo Bác, “Học hỏi là một việc
phải tiếp tục suốt đời. Suốt đời phải gắn liền lý luận với công tác thực tế.
Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế giới ngày ngày
đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và
hành để tiến bộ kịp nhân dân”(7).
Vì thế, quá trình học không nên được chăng hay chớ mà cần phải nghiêm túc,
không bỏ bê, không ngắt quãng. Người không chỉ nói, yêu cầu mỗi người, mỗi cán
bộ, đảng viên của Đảng đều phải học, tự học và học suốt đời, mà Người còn là
một tấm gương mẫu mực về quá trình tự làm giàu tri thức của bản thân. Khi đặt
chân sang các nước, Người đều tự học ngoại ngữ để tìm hiểu văn hóa, lịch sử các
nước và hòa nhập với cuộc sống nơi đó, từ đó tham gia hoạt động cách mạng, viết
sách, báo, tạp chí; đồng thời, nghiên cứu, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin và
truyền bá về Việt Nam.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945
thành công, trước tình hình thực dân Pháp thực hiện chính sách ngu dân khiến
hơn 90% đồng bào ta bị mù chữ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi mở chiến dịch
“diệt giặc dốt”. Trên tinh thần, ai biết chữ thì dạy cho người chưa biết chữ;
người biết nhiều dạy cho người biết ít; tận dụng mọi nơi, mọi lúc để dạy và
học,... phong trào thi đua “Bình dân học vụ” được Người phát động những năm đầu
khi nước nhà mới giành được độc lập đã được toàn dân đồng lòng, đồng sức tham
gia, triển khai với quyết tâm cao và đã đạt được những thành tựu không thể phủ
nhận. Ngoài ra, với tầm nhìn xa trông rộng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất chú
trọng đến sự nghiệp giáo dục và đào tạo của nước nhà theo phương châm: “Vì lợi
ích 10 năm thì phải trồng cây. Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Chính
điều này đã góp phần vào thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
Không chỉ nói về việc học nói chung mà Người còn chỉ rõ mục đích
của việc học là để hoàn thiện, phát triển bản thân và phụng sự cho đất nước.
Tháng 9-1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm trường Nguyễn Ái Quốc
Trung ương và Người đã ghi lại trong trang đầu cuốn sổ vàng truyền thống
của Trường:
“Học để làm việc
làm người
làm cán bộ
Học để phụng sự đoàn thể
phụng sự giai cấp và nhân dân
phụng sự Tổ quốc và nhân loại”(8).
Hồ Chí Minh đặt “làm cán bộ” sau “làm việc”, “làm người”
nhằm khẳng định bản chất của người cán bộ trong xã hội mới, học
không phải để làm quan như trong xã hội cũ như Người từng nhắc
nhở: “Học cốt để biết đạo lý làm người, để giúp dân, không nên theo đuổi
mục đích đỗ đạt để làm quan và nhũng nhiễu dân”(9) mà
học để thực hiện mục tiêu cao cả là “phụng sự” đoàn thể, giai
cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại, là luôn luôn đặt lợi ích của
Tổ quốc, của nhân dân lên trên tất cả. Với hai từ “phụng sự”, Hồ Chí
Minh đã nêu lên ý nghĩa đích thực của việc học tập thật sự khoa
học, cách mạng, tiến bộ và nhân văn. Theo Người, việc học phải hướng
tới mục đích toàn diện nhằm hoàn thiện nhân cách, đạo đức làm người;
chiếm lĩnh các kiến thức về văn hóa, chính trị, khoa học, kỹ thuật,
chuyên môn nghiệp vụ, đồng thời nắm bắt những kiến thức lý luận và
kiến thức thực tế. Nếu không có nhân cách, đạo đức sẽ không có bản lĩnh để
vượt qua được khó khăn, gian khổ; nếu không có trình độ sẽ không theo kịp
được yêu cầu ngày càng phát triển của cách mạng, đặc biệt nếu “làm
mà không có lý luận thì không khác gì đi mò trong đêm tối, vừa chậm
chạp, vừa hay vấp váp. Có lý luận thì mới hiểu được mọi việc trong
xã hội, trong phong trào để chủ trương cho đúng, làm cho đúng”(10).
Một điều đặc biệt là Chủ tịch
Hồ Chí Minh không chỉ là người đưa ra tư tưởng khuyến khích, động viên mọi
người học tập suốt đời mà Người cũng chính là tấm gương sáng mẫu mực về tinh
thần học, tự học và học suốt đời để làm giàu tri thức, nâng cao trình độ. Do
đó, Người luôn căn dặn mỗi cán bộ, đảng viên cần “thực hiện lời dạy của Lênin
là học, học nữa, học mãi. Học phải đi đôi với hành. Học để hành càng ngày càng
tốt hơn”(11).
Tính lôgic của mục đích học tập thể hiện rõ trong lời dạy
của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Học tập trước hết để làm việc vì làm việc có kết quả
là biểu hiện tư cách của người cán bộ chân chính, là thước đo danh dự và uy tín
của cán bộ; có biết “làm việc”, “làm người” mới xứng đáng “làm cán bộ” và
chỉ có ai biết “làm người” mới biết “làm cán bộ”.
Làm cán bộ trước hết phải học cách “làm việc”, “làm
người”, nếu “làm việc”, “làm người” không được mà làm cán bộ thì họ không chỉ
làm hỏng chính bản thân mình mà còn làm hỏng rất nhiều người. Ngược lại, để
làm người cán bộ tốt thì phải luôn gương mẫu trong công việc và không
ngừng nâng cao các giá trị làm người.
KHUYẾN KHÍCH, ĐỘNG
VIÊN, TẠO ĐỘNG LỰC ĐỂ TOÀN DÂN RA SỨC HỌC TẬP
Kế thừa tư tưởng của Hồ Chí
Minh về khuyến khích, động viên nhân dân ra sức học tập, từ khi đổi mới đến
nay, Đảng ta rất quan tâm đến việc khuyến học, khuyến tài. “Khuyến học,
khuyến tài được hiểu là những hoạt động vận động, khuyến khích người dân ở mọi
độ tuổi học tập thường xuyên, học suốt đời để có tri thức mới, hình thành những
kỹ năng mới giúp lao động hiệu quả hơn, cuộc sống văn minh, hạnh phúc hơn”(12). Mục tiêu của khuyến học, khuyến tài là
thúc đẩy xây dựng cả nước ta trở thành một xã hội học tập, tức một xã hội mà ai
cũng muốn học và phải học, từ trẻ em đến người lớn, ở mọi ngành nghề, xuất
thân, điều kiện, dân tộc, giới tính,… Hay nói cách khác, “xây dựng cả nước
thành một xã hội học tập” là mục tiêu chính, còn “khuyến học, khuyến tài” là
phương tiện để đạt được mục tiêu đó.
Ngày
2/10/1996, Hội Khuyến khích và Hỗ trợ giáo dục Việt Nam (gọi tắt là Hội Khuyến
học Việt Nam) được thành lập theo Quyết định số 122/QĐ-TTg ngày 29/2/1996 của
Thủ tướng Chính phủ. Theo
đó, “Hội Khuyến học Việt Nam (sau
đây gọi tắt là Hội) là tổ chức xã hội, tập hợp các lực lượng xã hội và công dân
Việt Nam sinh sống ở trong nước và nước ngoài tâm huyết với sự nghiệp giáo dục,
khuyến học, khuyến tài, góp phần xây dựng cả nước trở thành một xã hội học tập
nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phục vụ cho sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội
nhập khu vực và quốc tế”(13). Ngày
5/12/2005, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã tặng Hội Khuyến học Việt Nam bức
trướng với dòng chữ: “Hội Khuyến học Việt Nam - Khuyến học, khuyến tài Xây dựng
cả nước trở thành một xã hội học tập” để ghi nhận những đóng góp của Hội Khuyến
học Việt Nam với phong trào khuyến học, khuyến tài.
Ngày 13/4/2007, Bộ Chính trị khóa X ban hành Chỉ thị số 11-CT/TW
về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác khuyến học, khuyến tài,
xây dựng xã hội học tập”. Chỉ thị nhằm vận động nhân dân tích cực học tập nâng
cao dân trí, nghề nghiệp, chuyên môn nhằm tăng năng lực sản xuất, chất lượng
công việc, chất lượng cuộc sống. Gắn việc phát triển phong trào khuyến học,
khuyến tài với xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, học đi đôi với hành, với
phong trào làm kinh tế giỏi, xóa đói, giảm nghèo và xây dựng đời sống văn hóa ở
cơ sở.
Ngày 10/5/2019, Ban Bí thư khóa X ban hành Kết luận số 49-KL/TW về
tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 11-CT/TW của Bộ Chính trị khóa X yêu cầu: “Nâng
cao chất lượng, hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng nghề nghiệp cho công nhân,
người lao động trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới
công nghệ, lao động năng động, sáng tạo trong điều kiện nền kinh tế số hiện
nay. Khuyến khích các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, tổ chức xã hội, cơ sở giáo
dục nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo nghề và kỹ năng sống cho người lao
động.
Tại Đại hội XIII, Đảng ta xác định mục tiêu phát triển con người
toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để
văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát
triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Quan điểm của Đảng gắn việc phát triển phong
trào khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập với xây dựng đời sống văn
hóa ở cơ sở; với xây dựng đời sống văn hóa mới. Đại hội XIII cũng đã xác định
rõ: Chú trọng hơn giáo dục đạo đức, nhân cách, năng lực sáng tạo và các giá trị
cốt lõi, nhất là giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, truyền
thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân,
nhất là thế hệ trẻ; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc tốt đẹp của
người Việt Nam; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Gắn giáo dục tri thức, đạo
đức, thẩm mỹ, kỹ năng sống với giáo dục thể chất, nâng cao tầm vóc con người
Việt Nam; Tăng cường giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, truyền thống
và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất
là thanh niên; Đẩy mạnh giáo dục nâng cao nhận thức, ý thức tôn trọng và chấp
hành pháp luật, bảo vệ môi trường, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của người
Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ.
Có thể nhận thấy, Đảng ta đã kế thừa, vận dụng và phát triển sáng
tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong chủ trương thúc đẩy khuyến học khuyến tài, xây
dựng xã hội học tập. Nhờ đó đã khuyến khích, động viên, tạo động lực để toàn
dân ra sức học tập, không ngừng nâng cao trình độ và đóng góp ngày càng nhiều
cho sự phát triển đất nước. Mô hình “gia đình học tập, “dòng họ học tập”, “quê
hương học tập”, “xã hội học tập” là sự cụ thể hóa chủ trương đúng đắn của Đảng
về thúc đẩy toàn dân tích cực học tập, góp phần hiện thực hóa khát vọng phát
triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc trong giai đoạn hiện nay.
(theo tuyengiao.vn)
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự
thật, H, 2011, t.5, tr.349.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.333.
(3) (4) (11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.116, 113, 113.
(5) (7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Sđd, t.13, tr.187, 273.
(6) (8) (10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.208, 208, 357.
(9) Bác Hồ thời niên thiếu, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2000, tr.48-49
(12) Phạm Tất Dong: Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của
Đảng và Nhà nước với Hội Khuyến học Việt Nam, Tạp chí Giáo dục và Thời đại, số 4 (897), năm 2022, tr.22.
(13) Theo Điều lệ sửa đổi, bổ sung
(Phê duyệt kèm theo Quyết định số 151/QĐ-BNV ngày24 tháng 01 năm 2017 của Bộ
trưởng Bộ Nội vụ).