Toàn cảnh hội nghị Trung ương 8
khóa XIII
Quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về đảm bảo phúc lợi xã hội cho Nhân dân
Nội dung phúc lợi xã hội luôn được thể hiện rõ nét trong đường lối, chủ trương của Đảng và
Nhà nước ta. Đại hội lần thứ VI của Đảng đã khẳng định: “Tạo cơ sở phát triển
sức sản xuất, tăng thêm thu nhập quốc dân, từng bước mở rộng quỹ tiêu dùng xã
hội, làm cho nó giữ vị trí ngày càng lớn trong việc phát triển sự nghiệp giáo
dục, y tế, văn hóa và các sự nghiệp phúc lợi khác”(1).
Từ Đại hội IX đến Đại hội XI, với chủ trương
đẩy mạnh xã hội hóa trong thực hiện các chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước,
vấn đề đảm bảo phúc lợi xã hội cho người dân càng được đề cao. Cương lĩnh xây
dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát
triển năm 2011) đưa ra định hướng: “Không ngừng nâng cao đời sống của mọi thành
viên trong xã hội về ăn, ở, đi lại, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh và nâng cao
thể chất”(2). Đại hội XII của
Đảng đã nhấn mạnh, gắn kết chặt chẽ giữa chính sách kinh tế với đảm bảo phúc
lợi xã hội, phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân,
nâng cao phúc lợi xã hội để nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả
của công cuộc đổi mới(3).
Đến Đại hội XIII của Đảng, vấn đề phúc lợi xã
hội được nhấn mạnh và đề cao khi Đảng ta chỉ rõ: “Quan tâm đến mọi người dân,
bảo đảm chính sách lao động, việc làm, thu nhập, thực hiện tốt phúc lợi xã hội,
an sinh xã hội”; “Tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ và công
bằng xã hội, tính bền vững trong các chính sách xã hội, nhất là phúc lợi xã
hội, an ninh xã hội, an ninh con người”; “Chú trọng nâng cao phúc lợi xã hội,
an sinh xã hội, cố gắng bảo đảm những nhu cầu cơ bản, thiết yếu của nhân dân về
nhà ở, đi lại, giáo dục, y tế, việc làm”; “Chăm lo đời sống vật chất, tinh
thần, nhà ở và phúc lợi xã hội cho công nhân”(4).
Trên cơ sở các nghị quyết của Đảng, hệ thống chính sách, pháp luật
về phúc lợi xã hội của nước ta ngày càng được hoàn thiện và được triển khai
thực hiện khá toàn diện, hiệu quả, góp phần quan trọng giảm thiểu sự bất bình
đẳng trong xã hội, hỗ trợ được ngày càng nhiều hơn cho các nhóm yếu thế, nâng
cao được đời sống cả về vật chất và tinh thần cho người lao động, củng cố được
lòng tin của người dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa mà
chúng ta đang xây dựng.
Tại Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII vừa qua, tổng kết 10 năm thực
hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa XI về thực hiện chính sách xã hội, phúc lợi
xã hội cho người dân, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã nhận định, trong 10 năm
qua, đất nước ta đạt được nhiều kết quả, thành tựu quan trọng, thể hiện ngày
càng rõ tính ưu việt của chế độ ta: kinh tế, văn hóa, xã hội phát triển ổn định
và hài hòa hơn. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân trên mọi miền đất
nước được nâng lên. Việt Nam là quốc gia đi đầu trong việc giảm nghèo, thực
hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ và các mục tiêu phát triển bền vững
của Liên hợp quốc. Tuy nhiên, trong công tác quản lý và thực hiện phúc lợi xã
hội vẫn còn bộc lộ không ít những hạn chế, yếu kém cần sớm có giải pháp khắc
phục. Do đó, Ban Chấp hành Trung ương Đảng thống nhất ban hành Nghị quyết về
tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng thực hiện phúc lợi xã hội, đáp ứng yêu
cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới. Nghị quyết lần
này xác định rõ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp
chủ yếu nhằm tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện phúc lợi
xã hội để hướng tới toàn dân được hưởng phúc lợi xã hội, bảo đảm toàn diện,
công bằng, hiện đại, bao trùm, bền vững, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu,
nguyện vọng chính đáng của nhân dân(5).
Những hạn chế, yếu kém trong thực hiện phúc lợi xã hội mà Nghị
quyết Trung ương 8 (khóa XIII) đề cập nổi lên một số vấn đề như: Công cuộc xóa
đói, giảm nghèo tập trung vào các vùng, các đối tượng khó khăn nhất chưa đáp
ứng như kỳ vọng; một bộ phận không nhỏ lao động của cả nước chưa có nghề hoặc
thiếu kỹ năng lao động, đang làm những công việc chưa thật ổn định với tiền
lương, tiền công và bảo trợ xã hội thấp. Những rủi ro về kinh tế, xã hội trong
điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; biến đổi
khí hậu, thiên tai, dịch bệnh có xu hướng tăng lên… tác động tiêu cực đến đời
sống của nhân dân. Chính vì vậy, cần phải có nhận thức mới, đầy đủ hơn về phúc
lợi xã hội, phát huy thành quả và những kinh nghiệm tốt đã đạt được, khắc phục
những yếu kém bất cập để xây dựng một hệ thống chính sách, pháp luật về phúc
lợi xã hội đồng bộ, hiệu quả cao. Do đó, Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII đã đặt
ra yêu cầu:
Một
là, cần
khẳng định việc bảo đảm phúc lợi xã hội là một chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của
Nhà nước và là quyền lợi, trách nhiệm của toàn xã hội. Thông qua hệ thống các
cơ chế chính sách và nguồn lực của mình, Nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo
trong việc bảo đảm phúc lợi xã hội cho nhân dân. Nhà nước thực hiện tốt chính
sách phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân, phân bổ hợp lý và sử dụng
hiệu quả nguồn lực từ kinh tế nhà nước để thực hiện việc cơ cấu lại nền kinh tế
nhằm thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững và bảo đảm các yêu cầu cơ bản về phúc
lợi xã hội, coi việc thực hiện nhiệm vụ này là một nội dung quan trọng thể hiện
vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước.
Hai
là, hệ
thống chính sách, pháp luật về phúc lợi xã hội phải bảo đảm chủ động, tích cực
và có tính xã hội hóa cao. Theo đó, cùng với tăng cường vai trò của Nhà nước,
phải huy động mọi nguồn lực của xã hội, nâng cao trách nhiệm và năng lực tự an
sinh của mỗi cá nhân, gia đình và cộng đồng; vừa trợ giúp kịp thời, hiệu quả
trong việc bảo đảm mức sống tối thiểu của người dân, vừa góp phần quan trọng
thúc đẩy xóa đói, giảm nghèo, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân.
Ba
là, xây
dựng một hệ thống chính sách, pháp luật về phúc lợi xã hội đảm bảo đa tầng,
linh hoạt, bền vững, có thể hỗ trợ lẫn nhau, công bằng về trách nhiệm và lợi
ích, chia sẻ rủi ro, hướng tới bao phủ toàn dân, tập trung hỗ trợ cho những
người nghèo, hộ nghèo, những đối tượng dễ bị tổn thương, đặc biệt là những trẻ
em có hoàn cảnh khó khăn, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước và
tiếp cận với thông lệ quốc tế.
Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung trình
bày tham luận về "Quản lý phát triển xã hội bền vững, nâng cao năng lực
cạnh tranh về nhân lực, bảo đảm tiến bộ, công bằng, an sinh xã hội" tại
Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
Hiện thực hóa các mục
tiêu về phúc lợi xã hội
Để
hiện thực hóa các mục tiêu về phúc lợi xã hội cho người dân theo tinh thần Hội
nghị Trung ương 8 khóa XIII, cần tập trung thực hiện có hiệu quả một số giải
pháp sau:
Thứ
nhất, đẩy
mạnh triển khai các chương trình phát triển kinh tế - xã hội gắn với giải quyết
việc làm cho người lao động.
Giải
pháp này có vai trò quan trọng hàng đầu, bởi chỉ khi đất nước có nền tảng kinh
tế tốt, thu nhập quốc dân tăng cao, người dân có việc làm tạo ra thu nhập ổn
định thì mới có điều kiện để thực hiện tốt các mục tiêu của phúc lợi xã hội,
nâng cao được đời sống người dân. Do đó, Đảng và Nhà nước ta cần khuyến khích
tối đa các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp phát triển mạnh sản
xuất kinh doanh để tạo ra nhiều việc làm, đồng thời hỗ trợ người dân có việc
làm, tăng thu nhập nhằm thúc đẩy xóa đói, giảm nghèo và bảo đảm phúc lợi xã hội
một cách hiệu quả và bền vững.
Để
thực hiện tốt giải pháp này, trước hết cần tập trung tiến hành rà soát, đánh
giá toàn diện thực trạng và phân loại doanh nghiệp, dự án, công trình đầu tư và
vốn, tài sản nhà nước để có giải pháp cơ cấu lại, xử lý phù hợp. Rà soát phát
hiện và có biện pháp xử lý các doanh nghiệp, dự án đầu tư thua lỗ, kém hiệu
quả. Có các giải pháp phù hợp để lành mạnh hóa tình hình tài chính, xử lý
dứt điểm tồn đọng tài chính, nợ không có khả năng thanh toán và các tài sản
không sinh lời trong các tập đoàn, tổng công ty và doanh nghiệp thành
viên. Đẩy mạnh cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước theo lộ trình, tiêu chí,
danh mục phân loại doanh nghiệp nhà nước, bảo đảm Nhà nước nắm giữ tỷ lệ vốn
nhà nước tại doanh nghiệp theo quy định pháp luật; tập trung vào lĩnh vực kinh
doanh chính, khắc phục tình trạng đầu tư phân tán, dàn trải nhưng không hiệu quả
của doanh nghiệp nhà nước. Có giải pháp phù hợp huy động hiệu quả nguồn lực của
doanh nghiệp nhà nước tham gia tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội, đặc
biệt là trong một số lĩnh vực như năng lượng, hạ tầng số, nền tảng số, chuyển
đổi số, kết cấu hạ tầng giao thông quan trọng quốc gia, cung ứng các nguyên,
vật liệu đầu vào quan trọng cho sản xuất. Nghiên cứu, xây dựng hệ thống cơ
chế, chính sách theo hướng đổi mới quản lý của chủ sở hữu, tạo điều kiện phát
triển một số doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn, có vai trò mở đường phát triển
một số ngành kinh tế chủ lực, dẫn dắt doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
khác.
Bên
cạnh đó, cần phải hoàn thiện các chính sách khuyến khích đầu tư, chính sách ưu
đãi đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh sử dụng nhiều lao động, nhất là ở địa
bàn nông thôn; phải tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về việc
làm gắn với thực hiện đề án Đổi mới và Phát triển dạy nghề, chương trình dạy
nghề cho lao động nông thôn với các giải pháp toàn diện, đồng bộ và có hiệu
quả; phát triển mạnh thị trường lao động. Thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ
cho cả người học và cơ sở dạy nghề, như cho vay ưu đãi học nghề, hỗ trợ đào tạo
nghề cho lao động nông thôn, bộ đội xuất ngũ, phụ nữ, thanh niên…; đẩy mạnh
việc đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Tiếp tục hoàn thiện hệ
thống pháp luật về lao động, việc làm; chú trọng xây dựng quan hệ lao động hài
hòa, điều kiện và môi trường lao động an toàn.
Thứ
hai, phát
triển đồng bộ, đa dạng và nâng cao chất lượng hệ thống bảo hiểm, đồng thời có
chính sách hỗ trợ phù hợp để người dân tích cực tham gia.
Trong
điều kiện có những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường, cùng biến đổi khí
hậu, thiên tai, dịch bệnh có xu hướng gia tăng, việc phát triển hệ thống bảo
hiểm và sự tham gia rộng rãi của người dân được coi là giải pháp quan trọng
nhằm chia sẻ rủi ro và trợ giúp người dân tham gia bảo hiểm khi xảy ra các tác
động bất lợi về kinh tế, xã hội và môi trường. Cần khẩn trương hoàn thiện và
thực hiện có hiệu quả các cơ chế, chính sách nhằm phát triển hệ thống bảo hiểm
ngày càng đa dạng, đồng bộ, bền vững, với chất lượng được nâng cao, phục vụ có
hiệu quả các mục tiêu về an sinh, kinh tế và xã hội, đáp ứng nhu cầu đa dạng
của người tham gia bảo hiểm. Hệ thống này được xây dựng và hoạt động theo
nguyên tắc đóng - hưởng; có sự chia sẻ hợp lý về quyền lợi và nghĩa vụ. Nhà
nước có sự hỗ trợ phù hợp cho các đối tượng tham gia, nhất là người nghèo, cận
nghèo, trẻ em, các đối tượng chính sách và bảo trợ xã hội…Phát triển mạnh cả
bảo hiểm bắt buộc và bảo hiểm tự nguyện.
Nghiên
cứu sửa đổi, bổ sung các chế độ bảo hiểm xã hội phù hợp với yêu cầu của giai
đoạn mới, gắn với điều chỉnh lương hưu và lộ trình cải cách tiền lương. Xây
dựng chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện cho người lao động, trong đó có chính
sách hỗ trợ người lao động có thu nhập thấp, lao động ở nông thôn tham gia các
loại hình bảo hiểm xã hội. Thực hiện tốt chế độ bảo hiểm thất nghiệp. Tiếp tục
hoàn thiện đồng bộ các chính sách về bảo hiểm y tế, viện phí và khám chữa bệnh.
Đặc biệt chú trọng chính sách đối với bà mẹ, trẻ em, người nghèo, người dân ở
vùng khó khăn, người lao động trong các khu vực phi chính thức. Khẩn trương
nghiên cứu, thí điểm để mở rộng các hình thức bảo hiểm khác thích ứng với điều
kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, trong đó có chính sách hỗ trợ nông
dân tham gia bảo hiểm sản xuất nông nghiệp nhằm duy trì sản xuất và bảo đảm đời
sống.
Đổi mới hơn nữa nội dung, hình thức, phương
pháp truyền thông để nâng cao nhận thức của người dân về những lợi ích khi tham
gia bảo hiểm xã hội, đảm bảo thiết thực, hiệu quả, phù hợp với đặc điểm từng
vùng miền, tâm lý từng nhóm dân cư; triển khai đồng bộ, linh hoạt các nhóm giải
pháp phát triển người tham gia; đôn đốc thu, giảm nợ, không để phát sinh nợ
đọng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; đồng thời, giải quyết, chi trả kịp thời
đầy đủ các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. Tăng cường công tác thanh tra,
kiểm tra đột xuất; chú trọng thanh tra, kiểm tra theo hình thức điện tử; kịp
thời xử lý, kiến nghị cơ quan chức năng đối với các hành vi vi phạm pháp luật
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế… Tiếp tục rà soát, cắt giảm, đơn giản hóa thủ
tục hành chính; mở rộng, đa dạng hóa các hình thức cung cấp dịch vụ công trực
tuyến mức độ 4. Đẩy mạnh chuyển đổi số, hoàn thiện cơ sở hạ tầng, hệ thống cơ
sở dữ liệu chuyên ngành; hoàn thiện, bổ sung các tính năng, tiện ích mới trên
ứng dụng VssID; nghiên cứu, triển khai các nền tảng, giải pháp kỹ thuật mới
phục vụ chuyển đổi số, nhằm phục vụ tốt nhất quyền lợi của các đơn vị, doanh
nghiệp và người dân. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ cho công chức,
viên chức công tác tại cơ quan bảo hiểm xã hội, đại lý thu. Đồng thời, nêu cao
tinh thần, trách nhiệm phục vụ người tham gia và người thụ hưởng các chính sách
về bảo hiểm xã hội, góp phần xây dựng ngành bảo hiểm xã hội Việt Nam hiện đại,
chuyên nghiệp, hướng tới sự hài lòng của người dân trong bối cảnh mới.
Thứ
ba, thực
hiện có hiệu quả chương trình xóa đói giảm nghèo bền vững.
Trong
những năm tới, xóa đói, giảm nghèo vẫn là một nhiệm vụ bức thiết, mang ý nghĩa
chính trị, xã hội, nhân văn sâu sắc và là một trọng tâm trong công tác bảo đảm
an sinh xã hội và phúc lợi xã hội ở nước ta. Để thực hiện xóa đói, giảm nghèo
nhanh và bền vững, phải đẩy mạnh triển khai các chương trình phát triển kinh tế
- xã hội, trong đó trọng tâm là triển khai có hiệu quả Quyết định số
90/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia
giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 – 2025 và những định hướng về thực hiện
chính sách xã hội, phúc lợi xã hội của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 (khóa
XIII) với
chuẩn nghèo mới phù hợp với tình hình phát triển của nước ta và tiếp cận với
chuẩn quốc tế. Các chính sách và giải pháp xóa đói, giảm nghèo phải thiết thực,
đồng bộ cả về hỗ trợ phát triển sản xuất và đời sống, tạo việc làm, tiếp cận
thị trường; nâng cao khả năng tự vươn lên thoát nghèo bền vững của người dân.
Phải bảo đảm lồng ghép có hiệu quả các chương trình, dự án và nguồn lực trên
từng địa bàn; sự tham gia chủ động của người dân, cộng đồng và cơ sở.
Cùng
với việc ưu tiên bố trí kinh phí từ ngân sách nhà nước, tiếp tục huy động sự
trợ giúp của cộng đồng doanh nghiệp và của toàn xã hội, động viên người nghèo,
vùng nghèo nỗ lực vươn lên thoát nghèo bền vững, tiến tới làm giàu. Thực hiện
có hiệu quả các chương trình, dự án, chính sách giảm nghèo hiện có, nhất là
chương trình giảm nghèo ở các huyện có số hộ nghèo cao. Thực hiện cuộc vận động
xã hội sâu rộng triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn
mới, trong đó gắn phát triển kinh tế với xã hội và bảo vệ môi trường, xóa đói,
giảm nghèo, giải quyết việc làm và bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội,
phát triển nông thôn bền vững.
Thứ
tư, thực
hiện tốt chính sách ưu đãi đối với người có công và chính sách trợ giúp xã hội
cho các đối tượng bảo trợ xã hội.
Hiện
nay, nước ta có hơn 1,4 triệu người có công với nước đang hưởng chính sách trợ
cấp ưu đãi và hơn 1,6 triệu người đang hưởng chính sách trợ cấp xã hội thường
xuyên hàng tháng. Ngoài ra, nhu cầu trợ giúp đột xuất còn rất lớn do tỷ lệ
người nghèo, hộ nghèo, cận nghèo còn cao, đa số người già chưa được hưởng chế
độ hưu trí, tác động của kinh tế thị trường, dịch bệnh, thiên tai gây thiệt hại
ngày càng lớn. Vì vậy, thực hiện tốt hơn chính sách ưu đãi người có công với
đất nước và chính sách trợ giúp xã hội không những có ý nghĩa quan trọng trong
việc bảo đảm an sinh, ổn định xã hội, mà còn thể hiện bản chất tốt đẹp của chế
độ ta, dân tộc ta. Thấm nhuần đạo lý và truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn
quả nhớ người trồng cây”, cần tiếp tục hoàn chỉnh các chính sách và nâng cao
chế độ ưu đãi đối với người có công, phù hợp với sự phát triển kinh tế; đồng
thời hỗ trợ các gia đình người có công phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao
thu nhập; vận động toàn xã hội tham gia phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, bảo đảm
cho những người có công có mức sống cao hơn mức trung bình của dân cư cùng địa
bàn.
Hoàn
thiện các chính sách và phát triển hệ thống trợ giúp xã hội linh hoạt, ứng phó
có hiệu quả với các biến cố, rủi ro, theo hướng cùng với việc tăng cường trợ
giúp thường xuyên và đột xuất từ ngân sách nhà nước, phải đẩy mạnh xã hội hóa,
đa dạng các kênh và hình thức trợ giúp xã hội và cứu trợ xã hội tự nguyện, nhân
đạo dựa vào cộng đồng với sự tham gia rộng lớn của các doanh nghiệp, của xã hội
và kiều bào ta ở nước ngoài; tranh thủ sự trợ giúp của cộng đồng quốc tế. Tiếp
tục mở rộng đối tượng và điều kiện hưởng thụ trợ giúp xã hội đến toàn bộ các
nhóm dân cư dễ bị tổn thương với mức trợ giúp phù hợp. Phấn đấu bảo đảm cho mọi
người dân khi có thu nhập dưới mức sống tối thiểu đều được nhận trợ giúp xã
hội. Nghiên cứu hình thành các quỹ dự phòng và cơ chế trợ giúp tại các địa
phương để hỗ trợ kịp thời cho nhân dân khi có rủi ro đột xuất.
Thứ
năm, phát
huy vai trò chủ đạo của Nhà nước cũng như toàn xã hội để đảm bảo thực hiện tốt
phúc lợi xã hội.
Thực
hiện tốt phúc lợi xã hội có ý nghĩa quan trọng trong việc điều chỉnh các quan
hệ xã hội và phân phối lại một bộ phận thu nhập quốc dân, nhằm thỏa mãn những
nhu cầu thiết yếu về vật chất và tinh thần, giảm bớt sự chênh lệch về thu nhập
và mức sống giữa các thành viên, các tầng lớp dân cư, các nhóm xã hội và các
vùng miền. Trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn, thực hiện tốt giải pháp
này cũng là một biểu hiện thực tế và sinh động bản chất ưu việt của chế độ ta.
Do đó, việc bảo đảmphúc lợi xã hội cần phải gắn với đẩy mạnh phát triển các
dịch vụ xã hội để vừa trợ giúp mọi người dân được tiếp cận với các dịch vụ xã
hội cơ bản tối thiểu về khám, chữa bệnh, học hành, nhà ở, điện, nước sinh hoạt,
văn hóa, thông tin và truyền thông, bảo đảm vệ sinh môi trường, đi lại…vừa đáp
ứng nhu cầu ngày càng cao, đa dạng của nhân dân đối với các dịch vụ này.
Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong việc chăm lo phúc lợi xã hội,
cần đề cao trách nhiệm, cụ thể hóa chức năng, nhiệm vụ và đổi mới phương thức
quản lý phúc lợi xã hội, trong đó cần tập trung vào việc kiến tạo hệ thống phúc
lợi xã hội tiến bộ, chất lượng, hiệu quả, phù hợp với trình độ phát triển của
đất nước; tích cực đổi mới, hoàn thiện thể chế về tài chính ngân sách bảo đảm
phúc lợi xã hội; xác định cụ thể trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong việc
bảo đảm phúc lợi xã hội cho công nhân và người lao động; xây dựng, hoàn thiện
và thực hiện các cơ chế phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức xã hội, cộng đồng và nâng cao tính tự giác, tích cực của người dân về chăm
lo phúc lợi xã hội.
Bên cạnh đó, trong điều kiện nguồn lực tài chính có giới hạn, chưa
thể cùng một lúc triển khai phúc lợi xã hội trên tất cả các lĩnh vực, Nhà nước
cần ưu tiên nguồn lực, giải quyết những vướng mắc để nâng cao phúc lợi xã hội
trên một số lĩnh vực mà nhân dân, nhất là người lao động đang gặp nhiều khó
khăn, đang có nhu cầu cấp bách. Cần đẩy mạnh phát triển các quỹ phúc lợi xã hội
ở cả ba cấp độ: quỹ tập trung của Nhà nước; quỹ của các doanh nghiệp, đơn vị
kinh doanh; quỹ của các tập thể và cộng đồng. Phát triển hệ thống dịch vụ ngày
càng đa dạng, đồng bộ, mở rộng độ bao phủ, với chất lượng ngày càng nâng lên.
Quy định rõ công khai, minh bạch mức thụ hưởng các phúc lợi xã hội và dịch vụ
cơ bản tối thiểu của người dân; đồng thời phải khắc phục các tiêu cực, phiền
hà, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người dân tiếp cận hệ thống dịch vụ này; có
chính sách hỗ trợ phù hợp cho các đối tượng khó khăn.
Xây
dựng và triển khai có hiệu quả các chương trình quốc gia về phát triển giáo
dục, y tế, văn hóa, thông tin, thể thao, dân số, gia đình và trẻ em. Tiếp tục
đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, nhất là ở các vùng nghèo,
đặc biệt khó khăn; đồng thời hoàn thiện các chính sách về miễn giảm học phí,
học bổng, tín dụng ưu đãi cho người học, phổ cập giáo dục mầm non; chính sách
khám, chữa bệnh, thụ hưởng văn hóa, thông tin, trợ giúp pháp lý; chính sách nhà
ở…cho các đối tượng chính sách, đối tượng khó khăn. Đặc biệt, phải quan tâm làm
tốt hơn công tác chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em để con em chúng ta phát
triển toàn diện cả về thể chất, trí tuệ, tinh thần và nhân cách. Đẩy mạnh cuộc
vận động xây dựng gia đình văn hóa, ấm no, hạnh phúc.
Tiếp
tục hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật nhằm mở rộng sự tham gia của mọi
chủ thể vào cung cấp ngày càng nhiều hơn với chất lượng tốt hơn các dịch vụ
công cộng. Tạo điều kiện thuận lợi để mọi người dân đề cao trách nhiệm, nâng
cao năng lực và tham gia thiết thực vào việc bảo đảm phúc lợi xã hội. Khuyến
khích phát triển các mô hình phúc lợi xã hội tự nguyện ở cộng đồng, các doanh
nghiệp cung ứng dịch vụ công cộng theo cơ chế phi lợi nhuận và các hình thức
hợp tác công - tư. Đẩy mạnh các cuộc vận động xã hội như: ngày vì người nghèo,
phong trào tương thân tương ái, xây dựng nhà tình nghĩa, nhà đại đoàn kết dân
tộc…
Phúc lợi xã hội có vai trò vô cùng quan trọng đối
với sự tiến bộ và công bằng xã hội. Trong đó, giúp cho quá trình phân phối lợi
ích - thước đo của sự bình đẳng trong quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ, được
thực hiện một cách triệt để nhất… Do vậy, nó vừa tạo nên trạng thái ổn định của
xã hội, vừa tạo nên những điều kiện cần thiết thúc đẩy xã hội phát triển theo
hướng tiến bộ, đem lại những giá trị vật chất và tinh thần tốt đẹp hơn cho sự
hoàn thiện bản chất con người; bảo đảm sự “ngang nhau” giữa người với người
trong mối quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ, quyền lợi và nghĩa vụ, vinh dự
và trách nhiệm.
(theo tuyengiao.vn)
Tài liệu tham khảo
1. Đảng Cộng sản Việt Nam
(1986), Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI.Nxb CTQG, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam
(2011), Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,Nxb CTQG, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam
(2016), Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII.Nxb CTQG, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021),Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XIII. T1.Nxb
CTQG, Hà Nội.
5. https://vov.vn/chinh-tri/thong-bao-hoi-nghi-lan-thu-8-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xiii-post1051196.vov
--------------------
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI,
Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1986, tr.79.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI,
Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr.169.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII,
Văn phòng Trung ương Đảng, H, 2016, tr.30-31.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII,
Nxb Chính trị quốc gia, H, 2021, t.I, tr.116, 147, 149, 166.
(5)
https://vov.vn/chinh-tri/thong-bao-hoi-nghi-lan-thu-8-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xiii-post1051196.vov