Tọa đàm
“Bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ”
(nguồn: trang thông tin điện
tử Học viện Chính trị khu vực I - hcma1.hcma.vn)
Đặt vấn đề
Nghiên cứu khoa học là một trong những nhiệm vụ
trọng tâm của Học viện Chính trị khu vực I. Trong bối cảnh tình hình mới, hoạt động nghiên cứu khoa học ở Học viện có nhiều đổi mới, nhiều loại
hình, cấp độ nghiên cứu, đa dạng, phong phú; mục tiêu và sản phẩm nghiên cứu
được “phân khai” (triển khai,
phân lớp, phân cấp trong nghiên cứu), có địa chỉ ứng dụng rõ ràng. Việc đổi mới
toàn diện trên các mặt công tác đòi hỏi hoạt động nghiên cứu khoa học phải đổi mới,
nghiên cứu theo hướng trọng tâm vào nhiệm vụ chính trị của Học viện. Kết quả
của nghiên cứu khoa học phải được nâng cao, bồi trúc tri thức, luận cứ, kỹ
năng, phương pháp phục vụ đào tạo, bồi dưỡng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng; đồng thời, cung cấp luận cứ, luận chứng khoa học cho việc hoạch định
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước.
1. Quan điểm, định hướng nghiên cứu khoa học gắn
chức năng nhiệm vụ của Học viện
Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 30/7/2005 của Bộ Chính trị về đổi mới,
nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và nghiên cứu khoa học của Học
viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh có nhiều định hướng nhiệm
vụ nghiên cứu, trong đó nhấn mạnh: “Đẩy
mạnh và nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học trên các hướng: nghiên cứu phục
vụ nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; nghiên cứu đóng góp vào sự
phát triển lý luận, cung cấp luận cứ khoa học cho việc xây dựng, hoàn thiện
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; tổ chức thảo luận, làm sáng tỏ
những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn, đang có ý kiến khác nhau, đấu tranh chống
các quan điểm lệch lạc và luận điệu sai trái, góp phần tích cực vào công tác tư
tưởng của Đảng... tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản
nhằm làm sáng tỏ những giá trị, sức sống và ý nghĩa của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh; về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam; phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; về xây
dựng Đảng vững mạnh toàn diện trọng tâm là vấn đề Đảng cầm quyền; xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; về vấn đề toàn cầu hoá và hội
nhập kinh tế quốc tế... tạo ra những công trình, sản phẩm khoa học lớn, có uy
tín xã hội cao”[1].
Với định hướng
trên và căn cứ chức năng nhiệm vụ, Học viện Chính trị khu vực I thời gian qua
đã thống nhất triển khai hoạt động nghiên cứu khoa học theo định hướng cơ bản
như sau:
Một là, nghiên
cứu khoa học phục vụ trực tiếp cho quá trình đào tạo, bồi dưỡng
Yêu cầu đầu tiên
của việc nghiên cứu khoa học là tạo ra sản phẩm áp dụng phục vụ bài giảng, hình
thành tài liệu phục vụ giảng dạy. Đây vừa là nhu cầu tự thân, vừa là yêu cầu
khách quan của quá trình đào tạo, bồi dưỡng. Qua nghiên cứu, giảng viên có cơ
hội hệ thống hóa tri thức chuyên sâu, chuyên ngành; đồng thời, sáng tạo ra tri
thức, thông tin, dữ liệu mới gắn bối cảnh, hoàn cảnh, điều kiện cụ thể. Kết quả
này giúp cho giảng viên cấu trúc lại thông tin, dữ liệu nội dung giảng dạy, là
cơ sở quan trọng cho việc xây dựng giáo trình, học liệu phục vụ quá trình tổ
chức giảng dạy. Quá trình này biến người thợ giảng (chuyển tải thông tin dữ
liệu của người khác) thành người giảng viên trường Đảng theo đúng bản chất của
tổ chức.
Nghiên cứu khoa
học còn là quá trình tìm kiếm thông tin để trả lời câu hỏi nghiên cứu. Thực
chất nghiên cứu khoa học là sự tìm kiếm câu trả lời đảm bảo khách quan, chân
thực. Để thực hiện việc trả lời câu hỏi nghiên cứu, người nghiên cứu phải thực
hiện quy trình nghiên cứu. Thông qua thực hiện các quy trình, thao tác, kỹ năng
nghiên cứu, giảng viên không chỉ có thêm lượng tri thức về lĩnh vực chuyên môn
phục vụ cho quá trình tổ chức giảng dạy, mà còn được bổ sung thêm kỹ năng,
phương pháp, các quy trình nghiên cứu khoa học. Những kỹ năng, phương pháp
người nghiên cứu là cơ sở quan trọng hình thành tri thức, kỹ năng, phương pháp
- là nội dung bên trong của việc đổi mới phương pháp giảng dạy.
Hai là,
nghiên cứu khoa học cung cấp luận cứ, luận chứng, phương pháp, kỹ năng phục vụ
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Đối với trường
Đảng nhiệm vụ nghiên cứu khoa học không chỉ phục vụ đào tạo, bồi dưỡng mà còn
cung cấp phương pháp, nguyên tắc, luận cứ, luận chứng để bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng.
Nghiên cứu khoa học bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là sự nghiên cứu nhằm
khẳng định những nội dung về thế giới quan khoa học, phương pháp luận biện
chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, các lý thuyết khoa học hiện đại gắn với bối cảnh mới, qua đó, khẳng
định tính đúng đắn trong tiếp cận, giải quyết các vấn đề theo quan điểm duy
vật, khoa học; khẳng định các nguyên tắc của phương pháp luận biện chứng duy
vật Macxit: khách quan, toàn diện, phát triển, lịch sử - cụ thể, thực tiễn luôn
là chân lý có tính chất quy luật, phổ quát.
Nghiên cứu khoa
học bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng còn là nghiên cứu, xâu chuỗi, phân tích
các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn để tìm ra quy luật có tính chất phổ quát,
rút ra luận chứng, luận cứ để chứng minh tính đúng đắn trong lãnh đạo của Đảng,
những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phù
hợp thực tiễn hiện nay.
Ba là,
nghiên cứu khoa học cung cấp luận cứ, luận chứng góp phần xây dựng đường lối
của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước
Trên cơ sở nghiên
cứu làm sáng tỏ các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh trong bối cảnh mới, nghiên cứu khoa học để rút ra những luận cứ, làm cơ sở
hoạch định đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước. Theo Nghị quyết số 37
-NQ/TW ngày 09 tháng 10 năm 2014 của
Ban Chấp hành Trung ương về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm
2030 như sau[2]:
(1)
Tiếp tục khẳng định và cụ thể hóa những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các giá trị bền vững phù hợp với thực tiễn của
Việt Nam; chỉ rõ vấn đề cần bổ sung, phát triển.
Tiếp tục nghiên cứu có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, làm rõ sự bổ sung, phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin của Hồ Chí Minh trong thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Tập trung đi sâu nghiên cứu những giá trị văn hóa truyền thống, những bài học
kinh nghiệm lịch sử xây dựng và bảo vệ đất nước của dân tộc Việt Nam.
(2) Tiếp tục đi sâu nghiên cứu về bản chất, đặc điểm của chủ
nghĩa tư bản hiện đại, làm rõ tính chất, đặc điểm mới của thời đại quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Nghiên cứu
tình hình thế giới và khu vực, cục diện, quan hệ giữa các nước lớn, các nước
láng giềng và tương quan các lực lượng trên thế giới, những biến động về chính
trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng trong khu vực và thế giới; an ninh hàng hải
trên thế giới và khu vực tầm nhìn đến năm 2030; các vấn đề về dân chủ, nhân
quyền, tôn giáo. Tăng cường nghiên cứu dự báo tình hình.
(3) Đối với những trào lưu tư tưởng, học thuyết, lý thuyết
mới, tiếp tục mở rộng và đi sâu nghiên cứu trên quan điểm khách quan, biện
chứng và tiếp thu những giá trị tiến bộ. Kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa
giáo điều, chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa cơ hội và các tư tưởng thù địch dưới
mọi màu sắc.
(4) Nghiên cứu, phát triển và hoàn chỉnh những luận cứ khoa
học làm cơ sở hoạch định đường lối, chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước.
2. Thực tiễn hoạt động nghiên cứu khoa
học và rút ra một số bài học kinh nghiệm
Căn cứ định hướng
nghiên cứu của Trung ương và Chiến lược nghiên cứu khoa học của Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện chỉ đạo, cụ thể hóa trong xây dựng kế hoạch,
nội dung, yêu cầu trên các mặt cơ bản sau:
Một là, phân khai loại hình, cấp độ nghiên cứu và yêu cầu về chất lượng sản
phẩm đầu ra trong nghiên cứu
Việc phân khai
cấp độ, loại hình nghiên cứu khoa học được cụ thể như sau: Đề tài cấp cơ sở
tập trung vào hướng: (i) nghiên cứu
phục vụ trực tiếp việc đổi mới, hoàn thiện nội dung chương trình, phương pháp
giảng dạy, biên soạn giáo trình, tập bài giảng, tài liệu tham khảo, nhằm nâng
cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cũng như đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ
giảng viên; (ii) nghiên cứu bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng gắn với các chuyên đề
môn học; (iii) tư vấn, phục vụ công
tác quản lý, khai thác có hiệu quả các nguồn lực nhằm hoàn thành tốt các nhiệm
vụ chính trị của Học viện. Đề tài cấp bộ, tỉnh, thành phố và cấp quốc gia,
hướng vào việc nghiên cứu bổ sung, phát triển lý luận, xây dựng, chắt lọc báo
cáo kiến nghị nhằm cung cấp luận cứ khoa học, đề xuất các giải pháp can thiệp
chính sách phát triển kinh tế - xã hội của bộ, ngành, địa phương và Trung ương.
Đối với yêu cầu về sản phẩm của hoạt động nghiên
cứu khoa học được xây dựng theo tiêu chí: (i) xuất bản sách
chuyên khảo chuyên sâu, nhất là với những vấn đề mang tính chất nghiên cứu cơ
bản; (ii)
xuất bản sách phục vụ trực tiếp cho nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng, gắn với đổi
mới phương pháp giảng dạy; (iii) xuất bản tài liệu học tập phục vụ
cho bồi dưỡng, cập nhật kiến thức; (iv) để xuất bản sách tham khảo, chuyên
khảo phổ biến tri thức rộng rãi; (v) để cung cấp luận
cứ khoa học xây dựng chính sách; (vi) để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Với sự phong phú về loại hình, đa dạng về cấp độ
nghiên cứu, trong những năm gần đây, hoạt động nghiên cứu khoa học của Học viện
đã có bước phát triển, đạt được nhiều thành tựu.
Hai là, đẩy
mạnh hoạt động tư vấn, xây dựng quy trình, tiêu chí đánh giá nhằm nâng cao chất
lượng sản phẩm nghiên cứu
Để nâng cao chất
lượng sản phẩm, Học viện đề cao hoạt động tư vấn của các hội đồng khoa học và
các nhà khoa học có chuyên môn sâu. Công tác tư vấn khoa học được tiến hành
tuần tự từ hội đồng khoa học đơn vị, hội đồng khoa học cấp Học viện để tư vấn
cho các chủ nhiệm thực hiện nhiệm vụ khoa học nhằm nâng cao chất lượng sản
phẩm. Các hoạt động tư vấn là “kênh thông tin” để lắng nghe, tiếp thu những
vướng mắc, hoặc những phát hiện mới cần bổ sung của chủ nhiệm đề tài, hoặc các
nhóm nghiên cứu để điều chỉnh nội dung, đề cương, mục tiêu nghiên cứu. Đồng
thời với việc tư vấn của hội đồng, việc đánh giá nghiệm thu, phân loại sản phẩm
khoa học được cải tiến theo các tiêu chí, quy trình, quy định đúng mục tiêu về
định hướng và “phân khai” về nội dung nghiên cứu. Nghiệm thu đánh giá sản phẩm
khoa học được tổ chức đúng quy trình, có sự tham gia của các nhà khoa học trong
và ngoài Học viện.
Bên cạnh quy
trình nghiệm thu sản phẩm nghiên cứu, việc sử dụng kết quả nghiên cứu theo quy
trình quản lý nghiêm ngặt, đó là sau khi đánh giá, nghiệm thu các công trình
khoa học, đơn vị quản lý khoa học tiến hành xử lý: Lập hồ sơ các công trình
nghiên cứu, lập hệ thống, xây dựng mục lục công trình của từng cán bộ nghiên
cứu; xử lý kỹ thuật, lưu giữ bằng phương tiện công nghệ thông tin; phối hợp với
chủ nhiệm đề tài có kế hoạch chuyển giao kết quả nghiên cứu vào sản xuất, tổ
chức đăng báo, đăng ký quyền sở hữu trí tuệ và bản quyền cho các công trình
nghiên cứu khoa học theo quy định.
Ba là, có sự
phát triển nhanh về số lượng đề tài nghiên cứu; tăng cường phối hợp, liên kết với các ban, bộ, ngành Trung ương và địa phương
trong nghiên cứu khoa học
Những năm gần đây,
hoạt động nghiên cứu khoa học của Học viện không chỉ tăng về quy mô, kinh phí
được cấp theo kế hoạch, mà còn được mở rộng, liên kết giữa Học viện với các cơ
quan, ban, ngành của Trung ương và địa phương; mở rộng kết nối với địa
phương thực hiện các nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản
bác các quan điểm sai trái, thù địch. Nhiều cuộc hội thảo, nhiều đề tài khảo sát tổng kết thực
tiễn tại các địa phương được tiến hành. Đây có thể coi là hướng nghiên cứu mang
lại hiệu quả thiết thực, bởi một bên nghiên cứu nhằm cung cấp những luận cứ
khoa học, một bên là kiểm nghiệm những luận cứ đó để áp dụng, ban hành, đưa ra
những chủ trương, chính sách phù hợp áp dụng vào công tác chỉ đạo, lãnh đạo ở
địa phương.
Trong những năm
trở lại đây, cùng với công tác đào tạo, bồi dưỡng, hoạt động nghiên cứu khoa
học của Học viện đã có bước phát triển, đạt được nhiều thành tựu. Theo số liệu
tổng hợp của Ban Quản lý khoa học và Hợp tác quốc tế[6], từ năm 2013 đến tháng 9/2023, Học viện
đã thực hiện 12 đề tài khoa học cấp quốc gia, 33 đề tài khoa học cấp bộ; 180 đề
tài khoa học cấp cơ sở phân cấp; 82 đề tài cấp cơ sở tự chủ; 03 hội thảo cấp
bộ; 07 hội thảo quốc tế, quốc gia; 51 hội thảo cấp cơ sở; 01 dự án điều tra cơ
bản; 18 đề tài khoa học cấp tỉnh/thành phố. Bài báo đăng tải trên các phương
tiện truyền thông 127 bài; công bố trên tạp chí chuyên ngành là 875 bài; bài
báo quốc tế là 28 bài. Xuất bản 52 giáo trình thuộc chương trình đại học chính
trị dành cho Lào; 22 đầu sách được xuất bản là kết quả nghiên cứu từ đề tài
khoa học hằng năm và từ kết quả viết sách do Giám đốc Học viện giao nhiệm vụ.
Bốn là, phát
triển nhân lực khoa học nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm nghiên cứu
Trong những năm gần đây, nguồn nhân lực khoa học của Học viện tiếp tục
phát triển về số lượng, chất lượng. Các thế hệ cán bộ khoa học của Học viện đã
phát huy được lợi thế của mình trong quá
trình nghiên cứu. Lực lượng khoa học chủ lực chủ trì các đề tài khoa học cấp
quốc gia, cấp bộ, cấp tỉnh là những cán bộ có học hàm Phó Giáo sư, học vị Tiến
sĩ, có kinh nghiệm nghiên cứu chuyên sâu. Lực lượng cán bộ trình độ thạc sỹ,
tiến sỹ ít kinh nghiệp hơn thường là cán bộ trẻ nghiên cứu các đề tài cơ sở,
phục vụ trực tiếp các chuyên đề, bài giảng của các hệ lớp tại Học viện.
Để phát triển
nguồn nhân lực khoa học trẻ dần thay thế nguồn nhân lực khoa học chất lượng cao
hiện có, Học việc chọn cử bộ cán bộ trẻ đi đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính
trị, kiến thức chuyên môn, phương pháp giảng dạy; nghiên cứu thực tế tại các
địa phương nhằm tăng cường tri thức và năng lực. Qua quá trình phát triển nhân
lực khoa học đã phát hiện nhiều cán bộ trẻ dưới 40 tuổi, thậm chí cả dưới 30
tuổi có kỹ năng nghiên cứu chuyên nghiệp, sử dụng khá thành thạo ngoại ngữ và
các công cụ nghiên cứu mới, tiếp cận được phương pháp và lý thuyết nghiên cứu
hiện đại, sẵn sàng đảm đương nhiệm vụ nghiên cứu khoa học của Học viện trong
tương lai. Cũng theo thống kê tại Học viện tính đến tháng 10 năm 2023[4], trong số 292 cán
bộ, viên chức, có 07 Phó Giáo sư, tiến sĩ; 80 Tiến sĩ; 132 Thạc sĩ; toàn bộ cán
bộ trẻ ở các đơn vị chuyên môn được cử đi đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính
trị, kiến thức chuyên môn, phương pháp giảng dạy, đi nghiên cứu thực tế tại các
địa phương và các đơn vị chức năng trong Học viện đều đã tham gia, đảm đương
được nhiệm vụ giảng dạy và nghiên cứu.
Từ thành quả thực
tiễn triển khai hoạt động nghiên cứu khoa học của Học viện, tác giả bài viết xin
rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:
Một
là, cần chăm lo đào tạo nhân tố mới đi đôi với
phát triển toàn diện đội ngũ cán bộ khoa học ở từng đơn vị. Nhân tố mới đó phải
có năng lực nghiên cứu khoa học và tổ chức nghiên cứu khoa học một cách chuyên
nghiệp, tập hợp được cán bộ khoa học các thế hệ, sử dụng thành thạo các công cụ
và phương pháp nghiên cứu mới. Sở dĩ phải tạo ra nhân tố mới bởi vì khoa học
không thể phát triển theo kiểu dàn đều, mà phải bắt đầu từ các nhân tố mới mang
tính đòn bẩy để phát triển đồng bộ lực lượng nghiên cứu và giảng dạy.
Hai là, coi trọng hoàn thiện thể chế quản
lý khoa học, qua đó xác định tiêu chí sản phẩm khoa học cụ thể mà quá trình
nghiên cứu phải đạt tới; quy định rõ các quy định, quy trình, thủ tục đấu thầu,
xuất bản; quy định điều tiết các nguồn thu để tái đầu tư nghiên cứu khoa học,
hài hòa các quan hệ lợi ích giữa nghiên cứu và giảng dạy; hướng dẫn các chế độ,
chính sách cần thiết về đào tạo nguồn nhân lực khoa học và phát triển khoa học
mà cộng đồng các nhà khoa học mong đợi.
Ba
là, đa dạng hóa các loại hình đề tài khoa học, các
nguồn vốn đầu tư để phát triển sự nghiệp khoa học. Trong điều kiện nguồn vốn
phân cấp ngân sách hạn hẹp, đa dạng hóa là một cách thức để có thêm nguồn lực
phát triển sự nghiệp khoa học. Gắn với đa dạng hóa đề tài nghiên cứu thì phải
tăng cường vai trò quản lý của cơ quan chủ trì, xác định rõ trách nhiệm của chủ
nhiệm đề tài trong các chức năng phát triển khoa học của tổ chức (đào tạo nguồn
nhân lực, tạo ấn phẩm mang thương hiệu Học viện, phục vụ công tác đào tạo của
Học viện).
Bốn là, xác định rõ
loại hình kết quả nghiên cứu cụ thể gắn với chức năng của sản phẩm để làm cơ sở
cho đầu tư, tổ chức nghiên cứu và ứng dụng. Trong đó, coi trọng các sản phẩm
khoa học phục vụ trực tiếp cho các loại hình đào tạo và bồi dưỡng; nâng cao
hiệu quả quản trị nội bộ; phát triển các chuyên ngành khoa học; tạo thương hiệu
và uy tín của Học viện trong giai đoạn mới.
Năm
là, cá thể hóa trách nhiệm của các chủ thể quản lý
hoạt động khoa học, nhất là phát huy vai trò thủ trưởng các đơn vị, các Phó
Giáo sư, Tiến sĩ trong đào tạo nguồn nhân lực khoa học trẻ, thúc đẩy hoạt động
nghiên cứu khoa học; đồng thời, phát huy trách nhiệm của đơn vị quản lý khoa
học trong tham mưu Ban Giám đốc xây dựng các quy định, quy chế hướng dẫn và
quản lý hoạt động khoa học phù hợp thời kỳ mới. Cá thể hóa trách nhiệm của từng
cán bộ, giảng viên trong nghiên cứu khoa học bằng kế hoạch cụ thể hàng năm, gắn
với sản phẩm đầu ra và lấy làm chỉ tiêu đánh giá thi đua, khen thưởng, đề bạt,
bổ nhiệm, tăng lương trước thời hạn.
3. Một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động
nghiên cứu khoa học của Học viện trong tình hình mới
Một là, tạo sự chuyển biến thực sự, mạnh mẽ
từ trong nhận thức đến hành động của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ
khoa học, các viên chức phục vụ đối với hoạt động khoa học. Coi đây là nhiệm vụ
chính trị cơ bản, gắn bó hữu cơ với nhiệm vụ đào tạo, là một trong những căn cứ
quan trọng, chủ yếu để đánh giá chất lượng, hiệu quả công tác lãnh đạo, quản lý
và sử dụng cán bộ trong Học viện. Tạo động lực mạnh mẽ cho hoạt động khoa học
bằng việc đổi mới cơ chế, chính sách quản lý khoa học; tăng kinh phí và dành
thời gian hợp lý cho việc thực hiện các đề tài khoa học, nhất là đối với loại đề tài viết sách; có
chế độ khen thưởng kịp thời cho những đề tài có chất lượng cao và được xã hội
hóa.
Hai là, tiến hành công
tác quy hoạch lại đội ngũ cán bộ khoa học, làm cơ sở xây dựng kế hoạch đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ khoa học trẻ; đồng thời, tạo nguồn, bổ sung cán bộ
khoa học nhằm phục vụ yêu cầu chiến lược lâu dài, khắc phục tình trạng mất cân
đối, hẫng hụt cán bộ khoa học. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng về ngoại ngữ,
phương pháp, kỹ năng nghiên cứu khoa học cho đội ngũ cán bộ khoa học trẻ. Mỗi
đơn vị phải đào tạo, bồi dưỡng được một, hoặc vài nhân tố mới trở thành nguồn nhân
lực mũi nhọn để xây dựng nhóm nghiên cứu của khoa chuyên môn. Nhân tố mới đó
phải được tuyển dụng từ nguồn có chất lượng tốt, đào tạo cơ bản, sử dụng ngoại
ngữ thành thạo, tiếp cận được kỹ năng và phương pháp nghiên cứu hiện đại,
chuyên nghiệp. Kết hợp tốt giữa khai thác các nguồn nhân lực nghiên cứu hiện có
với đào tạo nguồn nhân lực khoa học trẻ kế cận. Lấy đổi mới công tác đào tạo,
nâng cao chất lượng bài giảng, để tạo sức ép buộc cán bộ, giảng viên thúc đẩy
nghiên cứu khoa học. Lấy cải tiến quản lý nội bộ làm động lực phát triển buộc
cán bộ lãnh đạo phải áp dụng tri thức khoa học vào quản lý (quản lý lao động,
quản lý đào tạo, quản lý tài chính).
Ba là, tiếp tục đổi
mới công tác quản lý khoa học theo hướng đổi mới cơ chế, hoàn thiện các quy định quản lý nhằm khai
thác và phát huy hiệu quả các nguồn lực; khuyến khích các cá nhân và tập thể
tạo ra những công trình khoa học có chất lượng cao cho Học viện và cho xã hội.
Tăng cường cán bộ quản lý khoa học có trình độ, năng lực và tâm huyết; xây
dựng, hoàn thiện bộ máy quản lý ngang tầm đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ mới đặt
ra.
Bốn là, thực hiện các quy định, cơ chế về
quản lý khoa học, đặc biệt là chế độ khen thưởng và kỷ luật khoa học; coi kết
quả nghiên cứu khoa học là những tiêu chuẩn thi đua, đánh giá, khen thưởng cán
bộ hàng năm. Có chế độ khen thưởng và đãi ngộ xứng đáng cho những cá nhân và
tập thể có cống hiến với sự nghiệp đào tạo và nghiên cứu khoa học.
Năm là, giải quyết hài
hòa mối quan hệ giữa nghiên cứu khoa học và đào tạo về kế hoạch, nội dung, chương
trình công tác và quan hệ lợi ích. Trên cơ sở đó, xây dựng định hướng nghiên
cứu khoa học gắn với yêu cầu, nhiệm vụ, có chương trình, kế hoạch hoạt động phù
hợp, tổ chức thực hiện trong toàn Học viện.
Sáu là, đầu tư kinh phí hợp lý, hiện đại
hóa cơ sở vật chất, thông tin liên lạc phục vụ nghiên cứu khoa học, xây dựng
môi trường khoa học và tạo động lực thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học,
nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Thực hiện tốt các nhiệm vụ, chế
độ báo cáo và thông tin khoa học.
Bảy là, đổi mới và đẩy
mạnh hoạt động nghiên cứu thực tế, gắn nghiên cứu lý luận với tổng kết thực
tiễn, có cơ chế, chính sách tạo điều kiện để đưa cán bộ trẻ đi nghiên cứu thực
tế, thực hiện đề tài, viết các bài báo khoa học, đồng thời phối hợp với các cơ
quan, đơn vị, bộ, ngành, các địa phương, doanh nghiệp trong nghiên cứu, kiểm
chứng và ứng dụng kết quả nghiên cứu trong thực tế.
Tám là, tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác
trong hoạt động khoa học, phối hợp, tranh thủ sự giúp đỡ, tạo điều kiện thuận
lợi cho hoạt động nghiên cứu khoa học và quản lý khoa học giữa Học viện với các
đơn vị trong hệ thống Học viện, các cơ quan bộ, ban, ngành, các tổ chức khoa học trong và
ngoài nước.
Kết luận
Trên cơ sở tiếp
cận quan điểm, định hướng hoạt động nghiên cứu khoa học của Học viện Chính trị
khu vực I nhằm đánh giá thực trạng hoạt động nghiên cứu khoa học của Học viện,
chỉ ra những thành công và kinh nghiệm; từ đó khẳng định sự cần thiết phải đổi
mới, nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu khoa học nhằm đáp ứng yêu cầu
phát triển. Việc đổi mới đó, không thể tách rời việc đổi mới, nâng cao chất
lượng đào tạo, bồi dưỡng và các mặt hoạt động khác của Học viện. Nó đòi hỏi sự
lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của Đảng ủy, Ban Giám đốc, Thủ trưởng các đơn vị,
các đoàn thể và sự tham gia tích cực, tự giác, chủ động, sự sáng tạo của cán
bộ, viên chức, trước hết là cán bộ nghiên cứu khoa học và giảng dạy đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ đổi mới giai đoạn hiện nay.
Tài liệu tham khảo:
[1] Bộ Chính trị (2005), Nghị
quyết số 52-NQ/TW ngày 30/7/2005 về đổi mới, nâng cao chất
lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và nghiên cứu khoa học của Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh.
[2] Bộ Chính trị (2014), Nghị quyết số 37
-NQ/TW ngày 09/10/2014 về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm
2030.
[3] Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
(2017), Quyết định số 6098/QĐ-HVCTQG ngày 15/12/2017 về việc ban
hành Quy chế quản lý hoạt động khoa học ở Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
[4] Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh (2018), Quyết định số 6587-QĐ/HVCTQG ngày 01/11/2018 về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của Học viện Chính
trị khu vực I.
[5] Học viện Chính
trị khu vực I (2021), Nâng cao năng lực giảng
dạy và nghiên cứu khoa học đáp ứng yêu cầu bản chất trường Đảng tại Học viện
Chính trị khu vực I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
[6] Học viện Chính
trị khu vực I (2023), Báo cáo tổng kết hoạt động khoa học ở Học viện
Chính trị khu vực I, giai đoạn năm 2013 đến năm 2023.