Thứ Sáu, ngày 15/12/2023, 10:50

Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học tại Học viện Chính trị khu vực I trong bối cảnh tình hình mới

TS. Vũ Văn Hậu
Phó Giám đốc Học viện Chính trị khu vực I

(GDLL) - Bài viết tiếp cận quan điểm, yêu cầu của hoạt động nghiên cứu khoa học tại Học viện Chính trị khu vực I, từ đó phân tích thực tiễn tổ chức thực hiện, rút ra bài học kinh nghiệm và đề xuất giải pháp đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học tại Học viện trong tình hình mới.

Tọa đàm “Bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ”

(nguồn: trang thông tin điện tử Học viện Chính trị khu vực I - hcma1.hcma.vn)

Đặt vấn đề

Nghiên cứu khoa học là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Học viện Chính trị khu vực I. Trong bối cảnh tình hình mới, hoạt động nghiên cứu khoa học ở Học viện có nhiều đổi mới, nhiều loại hình, cấp độ nghiên cứu, đa dạng, phong phú; mục tiêu và sản phẩm nghiên cứu được “phân khai” (triển khai, phân lớp, phân cấp trong nghiên cứu), có địa chỉ ứng dụng rõ ràng. Việc đổi mới toàn diện trên các mặt công tác đòi hỏi hoạt động nghiên cứu khoa học phải đổi mới, nghiên cứu theo hướng trọng tâm vào nhiệm vụ chính trị của Học viện. Kết quả của nghiên cứu khoa học phải được nâng cao, bồi trúc tri thức, luận cứ, kỹ năng, phương pháp phục vụ đào tạo, bồi dưỡng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; đồng thời, cung cấp luận cứ, luận chứng khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước.

1. Quan điểm, định hướng nghiên cứu khoa học gắn chức năng nhiệm vụ của Học viện

Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 30/7/2005 của Bộ Chính trị về đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và nghiên cứu khoa học của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh có nhiều định hướng nhiệm vụ nghiên cứu, trong đó nhấn mạnh: “Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học trên các hướng: nghiên cứu phục vụ nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; nghiên cứu đóng góp vào sự phát triển lý luận, cung cấp luận cứ khoa học cho việc xây dựng, hoàn thiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; tổ chức thảo luận, làm sáng tỏ những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn, đang có ý kiến khác nhau, đấu tranh chống các quan điểm lệch lạc và luận điệu sai trái, góp phần tích cực vào công tác tư tưởng của Đảng... tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản nhằm làm sáng tỏ những giá trị, sức sống và ý nghĩa của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; về xây dựng Đảng vững mạnh toàn diện trọng tâm là vấn đề Đảng cầm quyền; xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; về vấn đề toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế... tạo ra những công trình, sản phẩm khoa học lớn, có uy tín xã hội cao”[1].

Với định hướng trên và căn cứ chức năng nhiệm vụ, Học viện Chính trị khu vực I thời gian qua đã thống nhất triển khai hoạt động nghiên cứu khoa học theo định hướng cơ bản như sau:

Một là, nghiên cứu khoa học phục vụ trực tiếp cho quá trình đào tạo, bồi dưỡng

Yêu cầu đầu tiên của việc nghiên cứu khoa học là tạo ra sản phẩm áp dụng phục vụ bài giảng, hình thành tài liệu phục vụ giảng dạy. Đây vừa là nhu cầu tự thân, vừa là yêu cầu khách quan của quá trình đào tạo, bồi dưỡng. Qua nghiên cứu, giảng viên có cơ hội hệ thống hóa tri thức chuyên sâu, chuyên ngành; đồng thời, sáng tạo ra tri thức, thông tin, dữ liệu mới gắn bối cảnh, hoàn cảnh, điều kiện cụ thể. Kết quả này giúp cho giảng viên cấu trúc lại thông tin, dữ liệu nội dung giảng dạy, là cơ sở quan trọng cho việc xây dựng giáo trình, học liệu phục vụ quá trình tổ chức giảng dạy. Quá trình này biến người thợ giảng (chuyển tải thông tin dữ liệu của người khác) thành người giảng viên trường Đảng theo đúng bản chất của tổ chức.

Nghiên cứu khoa học còn là quá trình tìm kiếm thông tin để trả lời câu hỏi nghiên cứu. Thực chất nghiên cứu khoa học là sự tìm kiếm câu trả lời đảm bảo khách quan, chân thực. Để thực hiện việc trả lời câu hỏi nghiên cứu, người nghiên cứu phải thực hiện quy trình nghiên cứu. Thông qua thực hiện các quy trình, thao tác, kỹ năng nghiên cứu, giảng viên không chỉ có thêm lượng tri thức về lĩnh vực chuyên môn phục vụ cho quá trình tổ chức giảng dạy, mà còn được bổ sung thêm kỹ năng, phương pháp, các quy trình nghiên cứu khoa học. Những kỹ năng, phương pháp người nghiên cứu là cơ sở quan trọng hình thành tri thức, kỹ năng, phương pháp - là nội dung bên trong của việc đổi mới phương pháp giảng dạy.

Hai là, nghiên cứu khoa học cung cấp luận cứ, luận chứng, phương pháp, kỹ năng phục vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

Đối với trường Đảng nhiệm vụ nghiên cứu khoa học không chỉ phục vụ đào tạo, bồi dưỡng mà còn cung cấp phương pháp, nguyên tắc, luận cứ, luận chứng để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Nghiên cứu khoa học bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là sự nghiên cứu nhằm khẳng định những nội dung về thế giới quan khoa học, phương pháp luận biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các lý thuyết khoa học hiện đại gắn với bối cảnh mới, qua đó, khẳng định tính đúng đắn trong tiếp cận, giải quyết các vấn đề theo quan điểm duy vật, khoa học; khẳng định các nguyên tắc của phương pháp luận biện chứng duy vật Macxit: khách quan, toàn diện, phát triển, lịch sử - cụ thể, thực tiễn luôn là chân lý có tính chất quy luật, phổ quát.

Nghiên cứu khoa học bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng còn là nghiên cứu, xâu chuỗi, phân tích các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn để tìm ra quy luật có tính chất phổ quát, rút ra luận chứng, luận cứ để chứng minh tính đúng đắn trong lãnh đạo của Đảng, những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phù hợp thực tiễn hiện nay.

Ba là, nghiên cứu khoa học cung cấp luận cứ, luận chứng góp phần xây dựng đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước

Trên cơ sở nghiên cứu làm sáng tỏ các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh mới, nghiên cứu khoa học để rút ra những luận cứ, làm cơ sở hoạch định đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước. Theo Nghị quyết số 37 -NQ/TW ngày 09 tháng 10 năm 2014 của Ban Chấp hành Trung ương về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030 như sau[2]:

(1) Tiếp tục khẳng định và cụ thể hóa những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các giá trị bền vững phù hợp với thực tiễn của Việt Nam; chỉ rõ vấn đề cần bổ sung, phát triển. Tiếp tục nghiên cứu có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, làm rõ sự bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin của Hồ Chí Minh trong thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Tập trung đi sâu nghiên cứu những giá trị văn hóa truyền thống, những bài học kinh nghiệm lịch sử xây dựng và bảo vệ đất nước của dân tộc Việt Nam.

(2) Tiếp tục đi sâu nghiên cứu về bản chất, đặc điểm của chủ nghĩa tư bản hiện đại, làm rõ tính chất, đặc điểm mới của thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Nghiên cứu tình hình thế giới và khu vực, cục diện, quan hệ giữa các nước lớn, các nước láng giềng và tương quan các lực lượng trên thế giới, những biến động về chính trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng trong khu vực và thế giới; an ninh hàng hải trên thế giới và khu vực tầm nhìn đến năm 2030; các vấn đề về dân chủ, nhân quyền, tôn giáo. Tăng cường nghiên cứu dự báo tình hình.

(3) Đối với những trào lưu tư tưởng, học thuyết, lý thuyết mới, tiếp tục mở rộng và đi sâu nghiên cứu trên quan điểm khách quan, biện chứng và tiếp thu những giá trị tiến bộ. Kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa cơ hội và các tư tưởng thù địch dưới mọi màu sắc.

(4) Nghiên cứu, phát triển và hoàn chỉnh những luận cứ khoa học làm cơ sở hoạch định đường lối, chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước.

2. Thực tiễn hoạt động nghiên cứu khoa học và rút ra một số bài học kinh nghiệm

Căn cứ định hướng nghiên cứu của Trung ương và Chiến lược nghiên cứu khoa học của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện chỉ đạo, cụ thể hóa trong xây dựng kế hoạch, nội dung, yêu cầu trên các mặt cơ bản sau:

Một là, phân khai loại hình, cấp độ nghiên cứu và yêu cầu về chất lượng sản phẩm đầu ra trong nghiên cứu

Việc phân khai cấp độ, loại hình nghiên cứu khoa học được cụ thể như sau: Đề tài cấp cơ sở tập trung vào hướng: (i) nghiên cứu phục vụ trực tiếp việc đổi mới, hoàn thiện nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy, biên soạn giáo trình, tập bài giảng, tài liệu tham khảo, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cũng như đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ giảng viên; (ii) nghiên cứu bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng gắn với các chuyên đề môn học; (iii) tư vấn, phục vụ công tác quản lý, khai thác có hiệu quả các nguồn lực nhằm hoàn thành tốt các nhiệm vụ chính trị của Học viện. Đề tài cấp bộ, tỉnh, thành phố và cấp quốc gia, hướng vào việc nghiên cứu bổ sung, phát triển lý luận, xây dựng, chắt lọc báo cáo kiến nghị nhằm cung cấp luận cứ khoa học, đề xuất các giải pháp can thiệp chính sách phát triển kinh tế - xã hội của bộ, ngành, địa phương và Trung ương.

Đối với yêu cầu về sản phẩm của hoạt động nghiên cứu khoa học được xây dựng theo tiêu chí: (i) xuất bản sách chuyên khảo chuyên sâu, nhất là với những vấn đề mang tính chất nghiên cứu cơ bản; (ii) xuất bản sách phục vụ trực tiếp cho nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng, gắn với đổi mới phương pháp giảng dạy; (iii) xuất bản tài liệu học tập phục vụ cho bồi dưỡng, cập nhật kiến thức; (iv) để xuất bản sách tham khảo, chuyên khảo phổ biến tri thức rộng rãi; (v) để cung cấp luận cứ khoa học xây dựng chính sách; (vi) để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Với sự phong phú về loại hình, đa dạng về cấp độ nghiên cứu, trong những năm gần đây, hoạt động nghiên cứu khoa học của Học viện đã có bước phát triển, đạt được nhiều thành tựu.

Hai là, đẩy mạnh hoạt động tư vấn, xây dựng quy trình, tiêu chí đánh giá nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm nghiên cứu

Để nâng cao chất lượng sản phẩm, Học viện đề cao hoạt động tư vấn của các hội đồng khoa học và các nhà khoa học có chuyên môn sâu. Công tác tư vấn khoa học được tiến hành tuần tự từ hội đồng khoa học đơn vị, hội đồng khoa học cấp Học viện để tư vấn cho các chủ nhiệm thực hiện nhiệm vụ khoa học nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm. Các hoạt động tư vấn là “kênh thông tin” để lắng nghe, tiếp thu những vướng mắc, hoặc những phát hiện mới cần bổ sung của chủ nhiệm đề tài, hoặc các nhóm nghiên cứu để điều chỉnh nội dung, đề cương, mục tiêu nghiên cứu. Đồng thời với việc tư vấn của hội đồng, việc đánh giá nghiệm thu, phân loại sản phẩm khoa học được cải tiến theo các tiêu chí, quy trình, quy định đúng mục tiêu về định hướng và “phân khai” về nội dung nghiên cứu. Nghiệm thu đánh giá sản phẩm khoa học được tổ chức đúng quy trình, có sự tham gia của các nhà khoa học trong và ngoài Học viện.

Bên cạnh quy trình nghiệm thu sản phẩm nghiên cứu, việc sử dụng kết quả nghiên cứu theo quy trình quản lý nghiêm ngặt, đó là sau khi đánh giá, nghiệm thu các công trình khoa học, đơn vị quản lý khoa học tiến hành xử lý: Lập hồ sơ các công trình nghiên cứu, lập hệ thống, xây dựng mục lục công trình của từng cán bộ nghiên cứu; xử lý kỹ thuật, lưu giữ bằng phương tiện công nghệ thông tin; phối hợp với chủ nhiệm đề tài có kế hoạch chuyển giao kết quả nghiên cứu vào sản xuất, tổ chức đăng báo, đăng ký quyền sở hữu trí tuệ và bản quyền cho các công trình nghiên cứu khoa học theo quy định.

Ba là, có sự phát triển nhanh về số lượng đề tài nghiên cứu; tăng cường phối hợp, liên kết với các ban, bộ, ngành Trung ương và địa phương trong nghiên cứu khoa học

Những năm gần đây, hoạt động nghiên cứu khoa học của Học viện không chỉ tăng về quy mô, kinh phí được cấp theo kế hoạch, mà còn được mở rộng, liên kết giữa Học viện với các cơ quan, ban, ngành của Trung ương và địa phương; mở rộng kết nối với địa phương thực hiện các nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Nhiều cuộc hội thảo, nhiều đề tài khảo sát tổng kết thực tiễn tại các địa phương được tiến hành. Đây có thể coi là hướng nghiên cứu mang lại hiệu quả thiết thực, bởi một bên nghiên cứu nhằm cung cấp những luận cứ khoa học, một bên là kiểm nghiệm những luận cứ đó để áp dụng, ban hành, đưa ra những chủ trương, chính sách phù hợp áp dụng vào công tác chỉ đạo, lãnh đạo ở địa phương.

Trong những năm trở lại đây, cùng với công tác đào tạo, bồi dưỡng, hoạt động nghiên cứu khoa học của Học viện đã có bước phát triển, đạt được nhiều thành tựu. Theo số liệu tổng hợp của Ban Quản lý khoa học và Hợp tác quốc tế[6], từ năm 2013 đến tháng 9/2023, Học viện đã thực hiện 12 đề tài khoa học cấp quốc gia, 33 đề tài khoa học cấp bộ; 180 đề tài khoa học cấp cơ sở phân cấp; 82 đề tài cấp cơ sở tự chủ; 03 hội thảo cấp bộ; 07 hội thảo quốc tế, quốc gia; 51 hội thảo cấp cơ sở; 01 dự án điều tra cơ bản; 18 đề tài khoa học cấp tỉnh/thành phố. Bài báo đăng tải trên các phương tiện truyền thông 127 bài; công bố trên tạp chí chuyên ngành là 875 bài; bài báo quốc tế là 28 bài. Xuất bản 52 giáo trình thuộc chương trình đại học chính trị dành cho Lào; 22 đầu sách được xuất bản là kết quả nghiên cứu từ đề tài khoa học hằng năm và từ kết quả viết sách do Giám đốc Học viện giao nhiệm vụ.

Bốn là, phát triển nhân lực khoa học nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm nghiên cứu

Trong những năm gần đây, nguồn nhân lực khoa học của Học viện tiếp tục phát triển về số lượng, chất lượng. Các thế hệ cán bộ khoa học của Học viện đã phát huy được lợi thế của mình trong quá trình nghiên cứu. Lực lượng khoa học chủ lực chủ trì các đề tài khoa học cấp quốc gia, cấp bộ, cấp tỉnh là những cán bộ có học hàm Phó Giáo sư, học vị Tiến sĩ, có kinh nghiệm nghiên cứu chuyên sâu. Lực lượng cán bộ trình độ thạc sỹ, tiến sỹ ít kinh nghiệp hơn thường là cán bộ trẻ nghiên cứu các đề tài cơ sở, phục vụ trực tiếp các chuyên đề, bài giảng của các hệ lớp tại Học viện.

Để phát triển nguồn nhân lực khoa học trẻ dần thay thế nguồn nhân lực khoa học chất lượng cao hiện có, Học việc chọn cử bộ cán bộ trẻ đi đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị, kiến thức chuyên môn, phương pháp giảng dạy; nghiên cứu thực tế tại các địa phương nhằm tăng cường tri thức và năng lực. Qua quá trình phát triển nhân lực khoa học đã phát hiện nhiều cán bộ trẻ dưới 40 tuổi, thậm chí cả dưới 30 tuổi có kỹ năng nghiên cứu chuyên nghiệp, sử dụng khá thành thạo ngoại ngữ và các công cụ nghiên cứu mới, tiếp cận được phương pháp và lý thuyết nghiên cứu hiện đại, sẵn sàng đảm đương nhiệm vụ nghiên cứu khoa học của Học viện trong tương lai. Cũng theo thống kê tại Học viện tính đến tháng 10 năm 2023[4], trong số 292 cán bộ, viên chức, có 07 Phó Giáo sư, tiến sĩ; 80 Tiến sĩ; 132 Thạc sĩ; toàn bộ cán bộ trẻ ở các đơn vị chuyên môn được cử đi đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị, kiến thức chuyên môn, phương pháp giảng dạy, đi nghiên cứu thực tế tại các địa phương và các đơn vị chức năng trong Học viện đều đã tham gia, đảm đương được nhiệm vụ giảng dạy và nghiên cứu.

Từ thành quả thực tiễn triển khai hoạt động nghiên cứu khoa học của Học viện, tác giả bài viết xin rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:

Một là, cần chăm lo đào tạo nhân tố mới đi đôi với phát triển toàn diện đội ngũ cán bộ khoa học ở từng đơn vị. Nhân tố mới đó phải có năng lực nghiên cứu khoa học và tổ chức nghiên cứu khoa học một cách chuyên nghiệp, tập hợp được cán bộ khoa học các thế hệ, sử dụng thành thạo các công cụ và phương pháp nghiên cứu mới. Sở dĩ phải tạo ra nhân tố mới bởi vì khoa học không thể phát triển theo kiểu dàn đều, mà phải bắt đầu từ các nhân tố mới mang tính đòn bẩy để phát triển đồng bộ lực lượng nghiên cứu và giảng dạy.

Hai là, coi trọng hoàn thiện thể chế quản lý khoa học, qua đó xác định tiêu chí sản phẩm khoa học cụ thể mà quá trình nghiên cứu phải đạt tới; quy định rõ các quy định, quy trình, thủ tục đấu thầu, xuất bản; quy định điều tiết các nguồn thu để tái đầu tư nghiên cứu khoa học, hài hòa các quan hệ lợi ích giữa nghiên cứu và giảng dạy; hướng dẫn các chế độ, chính sách cần thiết về đào tạo nguồn nhân lực khoa học và phát triển khoa học mà cộng đồng các nhà khoa học mong đợi.

Ba là, đa dạng hóa các loại hình đề tài khoa học, các nguồn vốn đầu tư để phát triển sự nghiệp khoa học. Trong điều kiện nguồn vốn phân cấp ngân sách hạn hẹp, đa dạng hóa là một cách thức để có thêm nguồn lực phát triển sự nghiệp khoa học. Gắn với đa dạng hóa đề tài nghiên cứu thì phải tăng cường vai trò quản lý của cơ quan chủ trì, xác định rõ trách nhiệm của chủ nhiệm đề tài trong các chức năng phát triển khoa học của tổ chức (đào tạo nguồn nhân lực, tạo ấn phẩm mang thương hiệu Học viện, phục vụ công tác đào tạo của Học viện).

Bốn là, xác định rõ loại hình kết quả nghiên cứu cụ thể gắn với chức năng của sản phẩm để làm cơ sở cho đầu tư, tổ chức nghiên cứu và ứng dụng. Trong đó, coi trọng các sản phẩm khoa học phục vụ trực tiếp cho các loại hình đào tạo và bồi dưỡng; nâng cao hiệu quả quản trị nội bộ; phát triển các chuyên ngành khoa học; tạo thương hiệu và uy tín của Học viện trong giai đoạn mới.

Năm là, cá thể hóa trách nhiệm của các chủ thể quản lý hoạt động khoa học, nhất là phát huy vai trò thủ trưởng các đơn vị, các Phó Giáo sư, Tiến sĩ trong đào tạo nguồn nhân lực khoa học trẻ, thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học; đồng thời, phát huy trách nhiệm của đơn vị quản lý khoa học trong tham mưu Ban Giám đốc xây dựng các quy định, quy chế hướng dẫn và quản lý hoạt động khoa học phù hợp thời kỳ mới. Cá thể hóa trách nhiệm của từng cán bộ, giảng viên trong nghiên cứu khoa học bằng kế hoạch cụ thể hàng năm, gắn với sản phẩm đầu ra và lấy làm chỉ tiêu đánh giá thi đua, khen thưởng, đề bạt, bổ nhiệm, tăng lương trước thời hạn.

3. Một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học của Học viện trong tình hình mới

Một là, tạo sự chuyển biến thực sự, mạnh mẽ từ trong nhận thức đến hành động của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ khoa học, các viên chức phục vụ đối với hoạt động khoa học. Coi đây là nhiệm vụ chính trị cơ bản, gắn bó hữu cơ với nhiệm vụ đào tạo, là một trong những căn cứ quan trọng, chủ yếu để đánh giá chất lượng, hiệu quả công tác lãnh đạo, quản lý và sử dụng cán bộ trong Học viện. Tạo động lực mạnh mẽ cho hoạt động khoa học bằng việc đổi mới cơ chế, chính sách quản lý khoa học; tăng kinh phí và dành thời gian hợp lý cho việc thực hiện các đề tài khoa học, nhất là đối với loại đề tài viết sách; có chế độ khen thưởng kịp thời cho những đề tài có chất lượng cao và được xã hội hóa.

Hai là, tiến hành công tác quy hoạch lại đội ngũ cán bộ khoa học, làm cơ sở xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ khoa học trẻ; đồng thời, tạo nguồn, bổ sung cán bộ khoa học nhằm phục vụ yêu cầu chiến lược lâu dài, khắc phục tình trạng mất cân đối, hẫng hụt cán bộ khoa học. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng về ngoại ngữ, phương pháp, kỹ năng nghiên cứu khoa học cho đội ngũ cán bộ khoa học trẻ. Mỗi đơn vị phải đào tạo, bồi dưỡng được một, hoặc vài nhân tố mới trở thành nguồn nhân lực mũi nhọn để xây dựng nhóm nghiên cứu của khoa chuyên môn. Nhân tố mới đó phải được tuyển dụng từ nguồn có chất lượng tốt, đào tạo cơ bản, sử dụng ngoại ngữ thành thạo, tiếp cận được kỹ năng và phương pháp nghiên cứu hiện đại, chuyên nghiệp. Kết hợp tốt giữa khai thác các nguồn nhân lực nghiên cứu hiện có với đào tạo nguồn nhân lực khoa học trẻ kế cận. Lấy đổi mới công tác đào tạo, nâng cao chất lượng bài giảng, để tạo sức ép buộc cán bộ, giảng viên thúc đẩy nghiên cứu khoa học. Lấy cải tiến quản lý nội bộ làm động lực phát triển buộc cán bộ lãnh đạo phải áp dụng tri thức khoa học vào quản lý (quản lý lao động, quản lý đào tạo, quản lý tài chính).

Ba là, tiếp tục đổi mới công tác quản lý khoa học theo hướng đổi mới cơ chế, hoàn thiện các quy định quản lý nhằm khai thác và phát huy hiệu quả các nguồn lực; khuyến khích các cá nhân và tập thể tạo ra những công trình khoa học có chất lượng cao cho Học viện và cho xã hội. Tăng cường cán bộ quản lý khoa học có trình độ, năng lực và tâm huyết; xây dựng, hoàn thiện bộ máy quản lý ngang tầm đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ mới đặt ra.

Bốn là, thực hiện các quy định, cơ chế về quản lý khoa học, đặc biệt là chế độ khen thưởng và kỷ luật khoa học; coi kết quả nghiên cứu khoa học là những tiêu chuẩn thi đua, đánh giá, khen thưởng cán bộ hàng năm. Có chế độ khen thưởng và đãi ngộ xứng đáng cho những cá nhân và tập thể có cống hiến với sự nghiệp đào tạo và nghiên cứu khoa học.

Năm là, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa nghiên cứu khoa học và đào tạo về kế hoạch, nội dung, chương trình công tác và quan hệ lợi ích. Trên cơ sở đó, xây dựng định hướng nghiên cứu khoa học gắn với yêu cầu, nhiệm vụ, có chương trình, kế hoạch hoạt động phù hợp, tổ chức thực hiện trong toàn Học viện.

Sáu là, đầu tư kinh phí hợp lý, hiện đại hóa cơ sở vật chất, thông tin liên lạc phục vụ nghiên cứu khoa học, xây dựng môi trường khoa học và tạo động lực thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Thực hiện tốt các nhiệm vụ, chế độ báo cáo và thông tin khoa học.

Bảy là, đổi mới và đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu thực tế, gắn nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn, có cơ chế, chính sách tạo điều kiện để đưa cán bộ trẻ đi nghiên cứu thực tế, thực hiện đề tài, viết các bài báo khoa học, đồng thời phối hợp với các cơ quan, đơn vị, bộ, ngành, các địa phương, doanh nghiệp trong nghiên cứu, kiểm chứng và ứng dụng kết quả nghiên cứu trong thực tế.

Tám là, tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác trong hoạt động khoa học, phối hợp, tranh thủ sự giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động nghiên cứu khoa học và quản lý khoa học giữa Học viện với các đơn vị trong hệ thống Học viện, các cơ quan bộ, ban, ngành, các tổ chức khoa học trong và ngoài nước.

Kết luận

Trên cơ sở tiếp cận quan điểm, định hướng hoạt động nghiên cứu khoa học của Học viện Chính trị khu vực I nhằm đánh giá thực trạng hoạt động nghiên cứu khoa học của Học viện, chỉ ra những thành công và kinh nghiệm; từ đó khẳng định sự cần thiết phải đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu khoa học nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển. Việc đổi mới đó, không thể tách rời việc đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng và các mặt hoạt động khác của Học viện. Nó đòi hỏi sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của Đảng ủy, Ban Giám đốc, Thủ trưởng các đơn vị, các đoàn thể và sự tham gia tích cực, tự giác, chủ động, sự sáng tạo của cán bộ, viên chức, trước hết là cán bộ nghiên cứu khoa học và giảng dạy đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đổi mới giai đoạn hiện nay.

Tài liệu tham khảo:

[1] Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 30/7/2005 về đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và nghiên cứu khoa học của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

[2] Bộ Chính trị (2014), Nghị quyết số 37 -NQ/TW ngày 09/10/2014 về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030.

[3] Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2017), Quyết định số 6098/QĐ-HVCTQG ngày 15/12/2017 về việc ban hành Quy chế quản lý hoạt động khoa học ở Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

[4] Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2018), Quyết định số 6587-QĐ/HVCTQG ngày 01/11/2018 về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của Học viện Chính trị khu vực I.

[5] Học viện Chính trị khu vực I (2021), Nâng cao năng lực giảng dạy và nghiên cứu khoa học đáp ứng yêu cầu bản chất trường Đảng tại Học viện Chính trị khu vực I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[6] Học viện Chính trị khu vực I (2023), Báo cáo tổng kết hoạt động khoa học ở Học viện Chính trị khu vực I, giai đoạn năm 2013 đến năm 2023.

Đọc thêm

Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, tăng tính nhận diện hàng Việt Nam

Tác giả: Nguyễn Công Anh

(TG) - Trong thời gian qua, trong bối cảnh nền kinh tế trong nước và thế giới có nhiều biến động, Bộ Công Thương đã chỉ đạo, định hướng xây dựng và triển khai các hoạt động XTTM với nòng cốt là các hoạt động trong khung khổ Chương trình cấp quốc gia về XTTM theo hướng đa dạng hóa thị trường, mặt hàng xuất khẩu; tăng cường tận dụng cơ hội từ thị trường có FTA nhằm mang tính bền vững, cân bằng hơn, đảm bảo thị trường ổn định, lâu dài cho hoạt động xuất khẩu, nâng cao hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế và tăng cường phát triển thị trường trong nước.

nâng cao hiệu quả huy động các nguồn lực xã hội nhằm phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn mới các tỉnh vùng kinh tế trọng điểm bắc bộ: thực trạng và giải pháp

Tác giả: Hoàng Thị Lâm Oanh

(GDLL) - Dưới góc độ đánh giá các các nguồn lực xã hội phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn mới giai đoạn 2016-2020 các tỉnh vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, bài viết đề xuất một số khuyến nghị nâng cao hiệu quả huy động các nguồn lực xã hội phát triển kết cấu hạ tầng đáp ứng yêu cầu xây dựng nông thôn mới các tỉnh vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ đến 2030.

Bảo đảm quyền con người trong hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính trong quản lý đất đai

Tác giả: ThS Đỗ Phước Trung

(LLCT) - Lý luận, pháp luật và thực tiễn kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính trong quản lý đất đai là nhằm góp phần bảo đảm quyền con người ở Việt Nam hiện nay. Qua phân tích vấn đề lý luận và pháp lý, thực trạng hiện nay, bài viết đề xuất sự cần hoàn thiện thể chế, tổ chức và cán bộ, tăng cường công tác phối hợp cũng như kiến nghị với các cơ quan Trung ương nhằm bảo đảm nhân quyền trong kiểm sát việc giải quyết các vụ án.

Học viện Chính trị khu vực I – 70 năm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng

Tác giả: TS. Phạm Thị Ngọc Dung

(GDLL) - Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Học viện Chính trị khu vực I. Trong suốt 70 năm qua, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Học viện luôn được quan tâm, đổi mới và phát triển nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ về công tác cán bộ của đất nước trong từng thời kỳ cách mạng. Nhân dịp kỷ niệm 70 năm truyền thống Học viện Chính trị khu vực I (1953-2023), bài viết khái quát về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Học viện trong 70 năm qua, đồng thời tập trung phân tích các nội dung đã và đang thực hiện đổi mới mạnh mẽ công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới hiện nay.

KINH NGHIỆM XÂY DỰNG MÔ HÌNH CẤP XÃ ĐẠT CHUẨN TIẾP CẬN PHÁP LUẬT TẠI MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG - GIÁ TRỊ THAM KHẢO CHO TỈNH NAM ĐỊNH

Tác giả: Trần Thị Thanh Mai - Lại Sơn Tùng

(GDLL) - Xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật là một trong những tiêu chí thành phần của Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới. Với mục tiêu nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy chính quyền, tỉnh Nam Định cùng các địa phương khác đã và đang tích cực triển khai xây dựng bộ tiêu chí trên. Bài viết làm rõ thực tiễn xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật ở một số địa phương, qua đó gợi mở một số giá trị tham khảo cho tỉnh Nam Định trong việc nâng cao hiệu quả công tác xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật.