Ph.Ăngghen - Nhà lý luận lỗi lạc và chiến sĩ
cách mạng vĩ đại trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Đây là một vấn đề lý luận mà các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác -
Lê nin đã đề cập đến dưới nhiều góc độ phân tích khác nhau.
Trong
bài “Chủ nghĩa xã hội pháp lý” Ăngghen(1) đã bàn
về tính pháp quyền của chủ nghĩa xã hội. Trong bài viết này tôi xem xét và phân
tích những luận điểm của Ăngghen về Chủ nghĩa xã hội pháp quyền xem xét về
sự khác biệt trong quan niệm pháp quyền của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
tư bản
Thế giới quan pháp lý
dân chủ tư sản đã ra đời như thế nào
Ăngghen
bắt đầu nghiên cứu sự hình thành thế giới quan pháp lý dân chủ tư sản từ
trong lòng xã hội phong kiến, sự nghiên cứu về xã hội chính trị thời kỳ trung
cổ. Theo Ăngghen: “Thế giới quan thời trung cổ chủ yếu là thế giới quan thần
học. Thế giới châu Âu, thực tế bị mất đi sự thống nhất nội tại, đã được đạo Cơ
Đốc đoàn kết lại để chống kẻ thù chung bên ngoài - những tín đồ hồi giáo. Thế
giới Tây Âu là một nhóm các dân tộc mà sự phát triển bắt nguồn từ
những điều kiện của các mối tương quan luôn luôn thay đổi khi được công giáo
đoàn kết lại, sự thống nhất thần học đó không chỉ về phương diện tư tưởng.
Nó tồn tại thực sự không chỉ ở sự hiện diện của Giáo hoàng, trung tâm điểm quân
chủ của sự thống nhất đó mà trước hết là ở sự hiện diện của Giáo hội được tổ
chức trên những cơ sở phong kiến và tôn ty thứ bậc. Chiếm hữu khoảng một phần
ba toàn bộ ruộng đất ở mỗi nước, giáo hội có sức mạnh to lớn bên trong tổ
chức phong kiến. Giáo hội, với sự chiếm hữu ruộng đất phong kiến của
mình, là mối liên hệ thực tế giữa những nước khác nhau, bằng tổ chức phong
kiến của mình, giáo hội đem lại tính chất thần thánh cho chế độ nhà nước thế
tục, được tổ chức theo những nguyên tắc phong kiến”(2).
Xã
hội hội phong kiến Tây âu trung cổ được đạo Cơ Đốc thống nhất về mặt tinh
thần thần nhằm tập hợp sự đoàn kết chống lại Đạo Hồi. Trong sự thống nhất
về mặt tinh thần ấy người ta thấy sự ngự trị của tư duy thần học và giáo hội.
Đặc trưng của tư duy thần học là sự tin tưởng tuyệt đối vào một thế lực siêu tự
nhiên mang tính thần thánh. Thế lực siêu tự nhiên thần thánh
này quyết định tất cả. Sự sống hay cái chết của con người cũng được
quyết định bởi Chúa. Với niềm tin như thế con người sinh ra tâm lý ỷ lại,
chờ đợi vào sự ban phát từ Chúa. Họ không nỗ lực suy nghĩ tìm kiếm sự hiểu biết
về những quy luật của tự nhiên và xã hội. Suốt trong một thời kỳ lịch sử
dài của nhân loại sự kìm hãm về mặt tư duy như thế đã dẫn đến kết quả là
không có phát minh sáng chế về mặt khoa học kỹ thuật không có thuốc chữa bệnh.
Dịch bệnh đã hoành hành và lan rộng ở Tây Âu thời Trung Cổ cướp đi
nhiều sinh mệnh. Tây Âu trung cổ trì trệ và thiếu sinh khí, con người bất
lực trước tự nhiên hoài nghi sức mạnh lý tính của mình. Họ ỷ lại trông chờ vào
Chúa. Chúa và sự cứu rỗi từ Chúa đã là niềm tin và sức mạnh không bao giờ trở
thành hiện thực trong những niềm hy vọng mong manh của con người.
Tình
hình đó đã nhanh chóng thay đổi khi xuất hiện một tầng lớp thị dân
mới trong lòng châu Âu. Tầng lớp thị dân thành thị bao gồm những người sản
xuất hàng hóa và thương nhân khác biệt về cơ bản với phương thức
sản xuất phong kiến chủ yếu dựa trên sự tự cung tự cấp. Thế giới quan thần học
và trật tự xã hội phong kiến đã trở nên quá chật hẹp so với những điều kiện sản
xuất và trao đổi hàng hóa đã nảy sinh ở trong lòng nó. Các công
trường thủ công hình thành và cùng với nó là sản xuất hàng hóa để
trao đổi. Trật tự mà giai cấp mới này tạo ra và đòi hỏi dẫn đến việc thay
đổi trật tự phong kiến thần quyền. Thêm vào đó sự phát triển của khoa học
tự nhiên và những phát minh khoa học mới đã làm lung lay tận gốc rễ những
giáo điều thần học. Sự khác biệt đã xuất hiện, niềm tin vào những năng lực
tiềm ẩn trong con người đã được thức tỉnh, khát vọng lý tính bùng cháy. Con
người trở nên năng động hơn, tích cực hơn trong sự khai mở của một thế giới
quan mới. Ngọn cờ tôn giáo đã không còn có thể giữ vai trò lãnh đạo tuyệt đối trên
lãnh thổ Tây Âu. Kể từ khi các tác phẩm của các nhà tư
tưởng Khai sáng Pháp xuất hiện, một thế giới quan pháp lý mới đã hình
thành. Đây là thế giới quan pháp lý cổ điển của giai cấp tư sản.
“Ngọn
cờ tôn giáo bay phấp phới lần cuối cùng ở nước Anh vào thế kỷ 17 và chưa đến
năm mươi năm sau một thế giới quan mới đã xuất hiện ở nước Pháp mà không có mọi
sự tô vẽ và thế giới quan pháp lý này phải trở thành thế giới quan cổ điển của
giai cấp tư sản”(3).
Đặc
trưng của thế giới quan này là những quan điểm thần học đã được thế tục hóa.
Thần quyền đã nhường chỗ cho thế quyền và những quyền cơ bản của con người. Nhà
nước đã thay thế giáo hội. Việc trao đổi hàng hóa đặc biệt là chế độ ứng tiền
trước và tín dụng đòi hỏi phải có sự đảm bảo của nhà nước. Vì thế những
quy tắc được xã hội công nhận, những quy tắc mà toàn thể xã hội đều thừa nhận
bắt đầu xuất hiện với tính chất là một hệ thống pháp luật của nhà nước.
Người ta quan niệm những tiêu chuẩn luật pháp đó xuất hiện dường như không xuất
phát từ những yếu tố kinh tế mà chỉ do những quy định mang tính chất hình thức
của nhà nước.
“Đó
là thế giới quan thần học đã được thế tục hóa. Giáo điều và thần quyền đã
nhường chỗ cho quyền của con người, nhà nước thay thế giáo hội. Những quan hệ
kinh tế và xã hội được giáo hội chuẩn y, trước kia được coi là sự sáng tạo của
Giáo hội và giáo điều thi ngày nay lại được quan niệm là quan hệ dựa trên pháp
quyền và do nhà nước tạo nên. Vì việc trao đổi hàng hóa trong phạm vi xã
hội và dưới hình thức phát triển nhất của nó đã tạo nên những quan hệ
khế ước phức tạp đặc biệt là nhờ các chế độ ứng tiền trước và tín dụng, cho nên
đòi hỏi phải có những quy tắc được xã hội công nhận ăn những quy tắc mà chỉ có
toàn thể xã hội mới xác định được. Tức là những tiêu chuẩn luật pháp do
nhà nước quy định cho nên người ta quan niệm rằng tuồng như những tiêu chuẩn
luật pháp đó xuất hiện không phải do những yếu tố kinh tế mà do những quy định
chính thức của nhà nước”(4).
Đối
với nhà tư bản sự cạnh tranh trong sản xuất hàng hoá là quan hệ cơ bản nhất
giữa người với người trong quá trình sản xuất. Trong quá trình sản xuất hàng
hoá tự do này công bằng chỉ được thiết lập nếu người ta hoàn toàn bình đẳng
trước pháp luật, vì vậy nên: “…sự bình đẳng trước pháp luật đã trở thành khẩu
hiệu chiến đấu chủ yếu của giai cấp tư sản. Sự thật là cuộc đấu tranh của giai
cấp mới đang đi lên này chống bọn phong kiến và chế độ quân chủ chuyên chế bảo
vệ bọn phong kiến đó - như bất kỳ cuộc đấu tranh giai cấp nào - phải trở thành
cuộc đấu tranh chính trị, cuộc đấu tranh giành chính quyền nhà nước và phải
được tiến hành vì những yêu sách luật pháp - sự thật đó góp phần củng cố thế
giới quan pháp lý”(5).
Như
vậy thế giới quan pháp lý của giai cấp tư sản có nội dung chủ yếu là những yêu
sách luật pháp. Cuộc đấu tranh chính trị của giai cấp tư sản là cuộc đấu tranh
giành chính quyền nhà nước với mục đích thiết lập nên một trật tự pháp luật bảo
vệ cho tự do cạnh tranh và sản xuất hàng hoá. Những nội dung như vậy đã làm cho
thế giới quan pháp lý tư sản khác xa thế giới quan chuyên quyền phong kiến ở
tinh thần pháp quyền của nó.
Chủ nghĩa xã hội pháp
quyền - thế giới quan pháp lý của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
Giai
cấp tư sản không ra đời một cách đơn độc. Nền sản xuất vật chất mà nó đại diện
luôn luôn cần đến một lực lượng lao động đông đảo. Vì thế đồng thời với sự ra
đời và xuất hiện của mình: “Giai cấp tư sản (cũng) sinh ra đối thủ của mình là
giai cấp vô sản và cùng với nó, cuộc đấu tranh giai cấp mới, cuộc đấu tranh đã
bắt đầu từ trước khi giai cấp tư sản giành được quyền lực một cách triệt để.
Giống hệt như vào thời kỳ trước đây, khi trong cuộc đấu tranh chống tầng lớp
quý tộc, giai cấp tư sản theo truyền thống vẫn giữ rất lâu thế giới quan thần
học - cũng như vậy thoạt đầu giai cấp vô sản cũng tiếp thu phương pháp tư duy
pháp lý của địch thủ và tìm thấy trong đó vũ khí chống giai cấp tư sản”(6).
C. Mác và Ph. Ăng-ghen
_Tranh: Tư liệu
Như
vậy sau khi ra đời như một phần đối lập - khác biệt không thể tách rời của giai
cấp tư sản, giai cấp vô sản đã tiếp thu phương pháp tư duy pháp lý dân chủ tư
sản và tìm thấy trong đó sức mạnh để chống lại giai cấp tư sản: sức mạnh pháp
quyền. Những tổ chức Đảng cộng sản đầu tiên đã dựa trên những “cơ sở luật pháp”
đã được thiết lập trong thời đại dân chủ tư sản nhưng họ không bằng lòng với
việc sao chép thuần tuý tư duy chính trị pháp lý dân chủ tư sản. Họ tiếp thu
những giá trị tinh hoa của pháp lý dân chủ tư sản nhưng đồng thời cũng nhận
thức được một cách đầy đủ những khuôn khổ pháp quyền chật hẹp của thế giới quan
chính trị pháp lý dân chủ tư sản.
Đối
với họ những đòi hỏi của pháp quyền tư sản là không đầy đủ. Ngay từ đầu họ đã
mở rộng những khái niệm pháp quyền dân chủ tư sản. Khái niệm bình đẳng không
chỉ được hiểu là bình đẳng về mặt pháp lý mà còn được hiểu là sự bình đẳng về
mặt xã hội. Và sự bình đẳng xã hội này được xác lập từ những cơ sở kinh tế.
Giai cấp vô sản thừa nhận luận điểm của Adam Schmit rằng lao động là nguồn gốc
của mọi của cải nhưng họ từ chối việc chia sẻ một cách vô lý những của cải này
cho địa chủ và nhà tư bản. Họ nhận biết được bản chất bất công trong một sự
phân chia của cải như vậy.
“Những
tổ chức đảng vô sản đầu tiên cũng như những đại biểu lý luận của họ, đã dựa
hoàn toàn trên “cơ sở luật pháp” pháp lý, song họ xây dựng cho mình “cơ sở luật
pháp” không như giai cấp tư sản đã làm. Một mặt yêu sách về bình đẳng được mở
rộng với ý nghĩa là sự bình đẳng về pháp lý phải được bổ sung bằng sự bình đẳng
về xã hội. Mặt khác từ luận thuyết của A-đam Xmit - là người đã khẳng định rằng
lao động là nguồn gốc mọi của cải, nhưng lại cho rằng người công nhân phải chia
sẻ sản phẩm lao động của mình cho địa chủ và nhà tư bản- người ta đã rút ra kết
luận về sự bất công của việc phân chia như vậy và về sự cần thiết phải bãi bỏ
hoàn toàn việc đó, hoặc ít nhất cũng phải sửa đổi nó một cách có lợi cho công
nhân.”(7)
“Cơ
sở luật pháp” mà giai cấp vô sản dựa vào ở đây trước hết phải dựa trên những nền
tảng pháp lý mà họ tiếp thu từ tinh thần pháp luật tư sản nhưng họ không chỉ
dừng ở sự tiếp thu đó họ xây dựng cho mình những cơ sở luật pháp rộng lớn hơn
đáp ứng được những đòi hỏi về sự bình đẳng của họ. Khái niệm bình đẳng trong
pháp quyền tư sản có lẽ rất khác với khái niệm bình đẳng vô sản. Bình đẳng
trong pháp quyền tư sản được Rousseau định nghĩa là thiết lập một trật tự xã
hội trong đó không có người giầu quá để có thể mua được người khác đồng thời
cũng không có người nghèo quá đến mức phải tự bán mình(8). Cái trật tự đó đối với giai cấp vô sản
là chưa đủ. Họ đòi hỏi một sự bình đẳng xã hội rộng lớn hơn. Bình đẳng xã hội ở
đây trước hết phải là sự bình đẳng có nội dung pháp lý về quyền và nghĩa vụ của
mỗi thành viên trong xã hội. Người vô sản trước hết nhận biết rõ những quyền và
nghĩa vụ cơ bản của mình. Những quyền đó là quyền sống, quyền tự do và quyền
được hạnh phúc. Để thực hiện được những quyền cơ bản đó họ thực hiện nghĩa vụ
lao động của mình. Bình đẳng xã hội trong quan niệm vô sản trước hết là sự bình
đẳng trong thực hiện quyền và nghĩa vụ của con người. Sự bình đẳng đó còn đồng
thời phải được xác lập từ những cơ sở kinh tế của đời sống xã hội - bình đẳng
trong phân phối của cải có được từ lao động. Giai cấp tư sản từ trong những cơ
sở pháp quyền nền tảng của mình đã thiết lập nên một cái trật tự phân phối của
cải vật chất của xã hội trong đó những người không lao động như địa chủ và nhà
tư bản hưởng lợi. Họ chiếm dụng phần lớn của cải vật chất của xã hội và xây
dựng trật tự pháp quyền từ trong quá trình sản xuất để duy trì sự chiếm dụng
đó. Giai cấp vô sản ngay từ đầu đã đấu tranh chống lại cái trật tự vô lý này họ
đấu tranh chống lại những tai họa do phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa mang
lại. Họ thể hiện khát vọng giải phóng giai cấp trong việc đòi hỏi sự bình đẳng
xã hội bắt nguồn từ việc thay đổi những hoàn cảnh kinh tế trong đó sự bất bình
đẳng nẩy sinh và xuất hiện.
Theo
Ăngghen những nhà tư tưởng xuất sắc của chủ nghĩa xã hội sơ khai là
Xanh-Xi-mông, Phu-ri-ê và Ô-oen đều nhận thức được sự bất bình đẳng đến từ
những tai họa do phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa mang lại nhưng họ không
hướng đến việc đấu tranh để thay đổi cải biến phương thức sản xuất đó mà chỉ
dừng lại ở những cơ sở pháp lý đã được giai cấp tư sản xác lập rồi đi đến chỗ
hoài nghi phủ nhận mọi nỗ lực đấu tranh của giai cấp công nhân.
“Song
ngay những nhà tư tưởng xuất sắc nhất trong số những người theo chủ nghĩa xã
hội sơ khai là Xanh-Xi-mông, Phu-ri-ê và Ô-oen, đều cảm thấy rằng nếu dừng lại
ở vấn đề đó, trên “cơ sở luật pháp” hoàn toàn pháp lý thì không thể khắc phục
được những tai họa do phương thức sản xuất tư bản -tư sản, và đặc biệt do nền
đại công nghiệp hiện đại sinh ra, và điều này khiến cho họ hoàn toàn từ bỏ phạm
vi chính trị - pháp lý và tuyên bố mọi cuộc đấu tranh chính trị đều vô ích.”(9)
Từ
bỏ đấu tranh chính trị đồng nghĩa với từ bỏ khát vọng giải phóng giai cấp và từ
bỏ yêu sách về sự bình đẳng đầy đủ đến từ việc phân bổ những lợi ích kinh tế và
của cải vật chất. Những người công nhân nhận biết rất rõ rằng một sự bình đẳng
đầy đủ thực chất chỉ có thể có được khi cải tạo một cách căn bản quan hệ sản
xuất và phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong đó lợi ích của giai cấp vô
sản được chú trọng và bảo vệ. Thế giới quan pháp lý vô sản vì thế khác biệt về
chất so với thế giới quan pháp lý tư sản. Thế giới quan pháp lý vô sản đòi hỏi
việc xác lập một sự công bằng thực chất trong lĩnh vực kinh tế của đời sống xã
hội chứ không chỉ dừng lại ở những “cơ sở pháp luật” mang tính pháp lý một cách
hình thức. Chủ nghĩa xã hội pháp quyền vì thế cũng khác biệt với pháp quyền và
dân chủ tư sản ở chỗ không dừng lại ở việc xây dựng những thể chế pháp lý thuần
tuý mà còn sử dụng những thể chế pháp lý ấy để duy trì một sự công bằng và bình
đẳng trong lĩnh vực kinh tế của đời sống xã hội. Khi sự công bằng và bình đẳng
trong lĩnh vực kinh tế của đời sống xã hội vì một lý do nào đó bị xâm phạm thì
giai cấp công nhân và nhân dân lao động hoàn toàn có quyền dùng những công cụ
luật pháp của mình để can thiệp điều chỉnh. Trong nhiều trường hợp phải dùng
đến những công cụ chuyên chính của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trật tự kinh tế
của đời sống xã hội được quy định từ trong phương thức sản xuất vì thế chủ
nghĩa xã hội pháp quyền với tính cách là một chế độ chính trị xã hội của nhân dân
do nhân dân làm chủ phải xác lập được những quan hệ pháp quyền bảo vệ giai cấp
công nhân và nhân dân lao động từ ngay trong quá trình sản xuất của cải vật
chất của họ. Giai cấp công nhân chỉ có thể bảo vệ được những lợi ích sống còn
của mình dựa trên những cơ sở luật pháp của pháp quyền vô sản, họ không được
phép có những điều ảo tưởng quá xa xôi vào trật tự pháp lý dân chủ tư sản.
“Giai
cấp công nhân, do việc biến đổi phương thức sản xuất phong kiến thành phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, bị tước đoạt mọi quyền sở hữu về tư liệu sản
xuất, và đối với giai cấp công nhân, dưới ảnh hưởng của cơ chế phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa, việc mất quyền sở hữu này trở thành tài sản chuyển cho
các thế hệ tiếp sau thừa hưởng không hề thay đổi - giai cấp đó không thể tìm
thấy sự thể hiện mọi mặt những điều kiện sống còn của họ trong ảo tưởng pháp lý
của giai cấp tư sản. Giai cấp công nhân tự mình hoàn toàn có thể nhận thức
những điều kiện sống còn của mình chỉ trong trường hợp mọi vật được xem xét như
chúng có trong thực tế chứ không phải qua cặp kính mầu pháp lý”(10).
Chính
phương thức sản xuất hay nói một cách đơn giản hơn là cách thức sản xuất ra của
cải vật chất cho đời sống xã hội mới là cái quyết định tất cả. Chủ nghĩa xã hội
pháp quyền là khái niệm gắn liền với phương thức sản xuất. Pháp quyền là để bảo
vệ sản xuất và suy cho rộng ra là để bảo vệ trật tự kinh tế công bằng bình đẳng
trong đời sống xã hội.
“…Mác
đã giúp họ bằng cách chứng minh rằng tất cả mọi khái niệm pháp lý, chính trị,
triết học, tôn giáo và những khái niệm tương tự của con người, xét đến cùng do
những điều kiện kinh tế của đời sống con người, phương thức sản xuất và sự trao
đổi sản phẩm của họ quyết định. Bằng cách đó, thế giới quan đáp ứng những điều
kiện của đời sống và cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản đã được đề ra; chỉ có
sự thiếu những ảo tưởng trong đầu óc của công nhân mới có thể phù hợp với tình
trạng họ không có tài sản. Và quan điểm vô sản đó hiện nay đang thực hiện cuộc
diễu hành thắng lợi trên toàn thế giới”
Đúng
như Mác đã tiên đoán cuộc diễu hành thắng lợi của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động vẫn đang diễn ra trên phạm vi toàn thế giới, chỉ phương thức và
cách thức thực hiện có thể được điều chỉnh khác đi cho phù hợp với những chuyển
biến kinh tế xã hội đang diễn ra trong thế kỷ 21. Chủ nghĩa xã hội pháp quyền
xác lập và cung cấp những công cụ pháp lý bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân
trong cuộc diễu hành chiến thắng của họ.
(theo tuyengiao.vn)
(1) Bài viết do Ăngghen và
Cau-xki cùng thực hiện. Chính xác là Ăngghen đã viết những nội dung chính sau
đó Cau-xki tiếp tục chấp bút theo những ý tưởng và hướng dẫn của Ăngghen. Bài
viết sau đó được xuất bản bằng tiếng Pháp trên tạp chí “Mouvement socialiste”
số 132 năm 1904 dưới tên Ăngghen. Trong bài nghiên cứu này chúng tôi mặc định
xem bài viết là của Ăngghen
(2)
(3) (4) (5) (6) (7) (9) (10)
Các Mác và Ăngghen: Chủ
nghĩa xã hội pháp lý,
Toàn tập tập 21, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà nội 1995, tr.690,
691, 691-692, 692, 692, 692-693, 693, 694
(8)
Xem Rousseau: “Bàn về Khế ước xã hội” – Paris 1762, tr26