Thứ Bảy, ngày 20/01/2024, 13:12

Khơi thông mọi nguồn lực phát triển văn hóa, con người Việt Nam

PGS. TS. Đào Duy Quát
Nguyên Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương

(TG) - Chấn hưng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong thời kỳ mới là sứ mệnh vô cùng vẻ vang nhưng rất khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải “tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước nhằm đảm bảo sự thống nhất về tư tưởng và hành động trong xây dựng và phát triển văn hóa từ Trung ương tới cơ sở”, đồng thời “huy động tối đa các nguồn lực để phát triển văn hóa”.

 

1. Sau 35 năm đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc, tháng 11/2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định về những thành tựu nổi bật trong lĩnh vực văn hóa, đó là: “Nhận thức về văn hoá ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn trên các lĩnh vực, các loại hình; các sản phẩm văn hoá ngày càng đa dạng, phong phú, đáp ứng yêu cầu mới, nhiều mặt của xã hội. Nhiều giá trị văn hoá truyền thống và di sản văn hoá của dân tộc được kế thừa, bảo tồn và phát triển. Văn hoá trong chính trị và trong kinh tế bước đầu được coi trọng và phát huy hiệu quả, tích cực. Công nghiệp văn hoá và thị trường văn hoá có bước khởi sắc. Hoạt động giao lưu, hợp tác và hội nhập quốc tế có bước phát triển mới. Xây dựng con người Việt Nam đang từng bước trở thành trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Việc đấu tranh, phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái lạc hậu, chống các quan điểm, hành vi sai trái gây tác hại đến văn hoá, lối sống được chú trọng. Nhiều tấm gương sáng trong phong trào thi đua yêu nước, phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá" đã được biểu dương, lan toả vào đời sống xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hoá nói riêng, xây dựng và phát triển đất nước nói chung...”(1).

Bên cạnh những thành tựu đạt được, Tổng Bí thư cũng chỉ rõ: “Hạn chế, yếu kém nổi bật được nhắc lại nhiều lần lâu nay là văn hoá chưa được các cấp, các ngành nhận thức một cách sâu sắc và chưa được quan tâm một cách đầy đủ tương xứng với kinh tế và chính trị; chưa thật sự trở thành nguồn lực, động lực nội sinh của sự phát triển bền vững đất nước. Vai trò của văn hoá trong xây dựng con người chưa được xác định đúng tầm, còn có chiều hướng nặng về chức năng giải trí...”; “Môi trường văn hoá vẫn bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, tham nhũng, tiêu cực. Sự chênh lệch về hưởng thụ văn hoá giữa các vùng, các miền còn lớn...”; “Nhiều di sản văn hoá quý báu của dân tộc có nguy cơ bị xuống cấp, mai một, thậm chí bị tiêu vong. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý văn hoá còn lúng túng, chậm trễ...”; “Đầu tư cho văn hoá chưa đúng mức, còn dàn trải, hiệu quả chưa cao… Chất lượng và số lượng đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác văn hoá chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển văn hoá trong thời kỳ mới...”; “chưa coi trọng đúng mức và có biện pháp tích cực để giữ gìn, bảo vệ và phát huy những giá trị văn hoá tốt đẹp, đặc sắc của dân tộc; nhiều khi bắt chước nước ngoài một cách nhố nhăng, phản cảm, không có chọn lọc..”(2).

Theo Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, “những yếu kém, bất cập nêu trên chậm được giải quyết mặc dù đã được nhắc đi, nhắc lại trong nhiều văn kiện, nghị quyết của Đảng...”; “có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan vẫn là chính”(3).

2. Từ những đánh giá của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho thấy, một trong những nguyên nhân chủ quan lớn nhất của những yếu kém, bất cập trong lĩnh vực văn hóa là xuất phát từ công tác tư tưởng và công tác tổ chức, cán bộ. Trong đó, có việc thiếu gắn kết chặt chẽ giữa các lĩnh vực công tác này để tạo nên sự thống nhất cao về tư tưởng và hành động trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp phát triển văn hóa con người Việt Nam trong thời kỳ mới. Điều này dẫn đến một số biểu hiện cụ thể sau:

Một là, việc tăng cường nguồn lực và đầu tư cho văn hóa chưa đúng mức, còn dàn trải, hiệu quả thấp. Số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác văn hóa chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển văn hóa trong thời kỳ mới. Về tổng thể, mức đầu tư cho văn hóa mới chỉ đạt 50% mức chi tiêu đặt ra cả ở cấp Trung ương và địa phương. Ngân sách cho hoạt động văn hóa từ đầu tư phát triển và chi thường xuyên ngày càng trở nên mất cân đối theo hướng tăng cho chi thường xuyên...

Hai là, việc thực hiện xã hội hóa các hoạt động văn hóa - văn nghệ còn nhiều hạn chế, yếu kém. Hạn chế lớn nhất là tốc độ xã hội hóa ở nhiều ngành, nhiều lĩnh vực còn rất chậm so với tiềm năng và chỉ tiêu định hướng mà Chính phủ đã nêu trong Nghị quyết 05/2005/NQ-CP. Bên cạnh đó, mức độ xã hội hóa không đồng đều giữa các vùng, miền và giữa các địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội gần như nhau...

Ba là, công tác quản lý xã hội hóa còn bất cập cả trong định hướng phát triển và trong xây dựng quy hoạch, kế hoạch, dự án, dẫn đến việc triển khai thực hiện còn nhiều lúng túng và chậm. Quản lý nhà nước có biểu hiện vừa gò bó, vừa buông lỏng, không ít cơ chế chính sách đã ban hành nhưng lại thiếu cụ thể rõ ràng, thiếu đồng bộ và thậm chí không phù hợp với cơ chế thị trường định hướng XHCN.

Bốn là, nhận thức về vai trò của văn hóa và việc cụ thể hóa những quan điểm, chủ trương của Đảng ở không ít nơi còn nhiều bất cập; còn đùn đẩy trách nhiệm hoặc chồng chéo nhiệm vụ giữa cấp ủy và chính quyền, giữa các cơ quan chức năng... Đây cũng là nguyên nhân chủ yếu làm gia tăng, kéo dài, chậm khắc phục những hạn chế, bất cập, yếu kém. Chẳng hạn như, vì nhận thức chưa đầy đủ về chủ trương xã hội hóa dẫn đến những “khập khiễng” trong công tác tuyên truyền về mục đích, quan niệm và các hình thức xã hội hóa; hiểu “lơ mơ” và triển khai thực hiện không đúng về cơ chế, chính sách cho xã hội hóa.

Năm là, năng lực tổ chức thực hiện của một bộ phận không nhỏ cán bộ quản lý văn hóa chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra. Nguồn nhân lực cho phát triển văn hóa (cán bộ lãnh đạo, quản lý; giảng viên đào tạo, bồi dưỡng; văn nghệ sĩ..) ở tất cả các cấp, các lĩnh vực còn hạn chế hoặc chưa đồng đều cả về số lượng và chất lượng; chưa đáp ứng được yêu cầu làm cho văn hóa thực sự trở thành nguồn lực, động lực nội sinh của sự phát triển bền vững đất nước.

3. Để chấn hưng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong thời kỳ mới, trên cơ sở tiếp tục đẩy mạnh thực hiện đồng bộ, hiệu quả các chủ trương, giải pháp đã có, đặc biệt là những giải pháp được xác định tại Nghị quyết số 33-NQ/TW khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” và 4 giải pháp mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ đạo tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021; một trong những nhiệm vụ trước mắt là phải gắn kết chặt chẽ công tác tư tưởng với công tác tổ chức, cán bộ để khơi thông mọi nguồn lực. Trong đó, hơn lúc nào hết, phải tập trung thực hiện một cách quyết liệt giải pháp tăng cường mạnh mẽ mọi nguồn lực cho phát triển văn hóa, con người, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Cần thống nhất cách hiểu nguồn lực cũng đồng thời là động lực khi cùng nhấn mạnh đến một số đặc điểm như “tạo ra”, “thúc đẩy”, “tất cả/tổng thể” và “phát triển”. Từ đó có thể xác định nguồn lực là tổng thể các yếu tố vật thể và phi vật thể tạo nên sức mạnh thúc đẩy sự phát triển. Vì vừa mang yếu tố vật chất, vừa mang yếu tố tinh thần nên cần xác định rõ từng loại nguồn lực cho phát triển văn hóa, như: 1) Nguồn nhân lực, bao gồm đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa; đội ngũ các nhà văn hóa, văn nghệ sĩ; 2) Nguồn vật lực - tài lực, bao gồm vốn - tài chính - tiền tệ, bất động sản, nguyên vật liệu phục vụ các ngành công nghiệp văn hóa, phục vụ cho quá trình sáng tạo, quảng bá các sản phẩm, tác phẩm văn hóa; các công trình văn hóa, các tác phẩm văn học - nghệ thuật; hệ thống các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể; 3) Nguồn ngoại lực thông qua các hoạt động hội nhập, giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa, trong đó, yếu tố quan trọng nhất là đội ngũ các nhà văn hóa, văn nghệ sĩ Việt Nam đang định cư ở nước ngoài.

Chấn hưng và phát triển nền văn hóa Việt Nam trong thời kỳ mới là sứ mệnh vô cùng vẻ vang nhưng rất khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải “Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước nhằm đảm bảo sự thống nhất về tư tưởng và hành động trong xây dựng và phát triển văn hóa từ Trung ương tới cơ sở. Cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp phải nhận thức sâu sắc và quán triệt đầy đủ các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng về văn hóa và trên cơ sở đó xây dựng các chương trình kế hoạch thực hiện. Huy động tối đa các nguồn lực để phát triển văn hóa”(4).

Chỉ có gắn kết chặt chẽ công tác tư tưởng với công tác tổ chức, cán bộ và cơ chế chính sách mới tạo nên sự thống nhất cao về tư tưởng và hành động nhằm thực hiện thành công 6 nhiệm vụ trọng tâm và và 4 giải pháp chủ yếu, trong đó có giải pháp tăng mức đầu tư và khơi thông mọi nguồn lực cho phát triển văn hóa.

Tiếp nối thành công từ Hội nghị văn hóa toàn quốc (tháng 11/2021), theo chúng tôi, Trung ương nên nghiên cứu, thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương chấn hưng và phát triển văn hóa và con người Việt Nam đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045 (Ban Chỉ đạo). Trong đó, đồng chí Ủy viên Bộ chính trị, Thường trực Ban Bí thư làm Trưởng Ban Chỉ đạo; các đồng chí Phó Thủ tướng, Phó Chủ tịch Quốc hội, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương là Phó Trưởng Ban chỉ đạo; Ban Tuyên giáo Trung ương là cơ quan Thường trực; Thành viên Ban Chỉ đạo gồm lãnh đạo các bộ, ngành: Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Giáo dục và Đào tạo, Khoa học và Công nghệ, Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Tư pháp, Y tế, Nội vụ, Ủy ban Văn hóa - Giáo dục của Quốc Hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội, Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật...

Theo đó, Ban Chỉ đạo sẽ tập trung chỉ đạo xây dựng Chương trình quốc gia có mục tiêu chấn hưng và phát triển văn hóa và con người Việt Nam đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2045. Trong đó có các chương trình bộ phận:

Chương trình xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện. Chỉ rõ trách nhiệm, nhiệm vụ và các giải pháp xây dựng con người Việt Nam của các gia đình; của hệ thống giáo dục - đào tạo; của hệ thống các trường chính trị; của hệ thống các tổ chức chính trị - xã hội, nhất là của các tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước...

Chương trình xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh. Xác định rõ những biện pháp, cơ chế, chính sách để xây dựng văn hóa trong Đảng; văn hóa trong công vụ; văn hóa doanh nghiệp; văn hóa trong các đơn vị quân đội và công an; văn hóa trong các trường học; văn hóa trong chính trị và kinh tế. Xây dựng môi trường văn hóa số phù hợp với nền kinh tế số, xã hội số và công dân số. Làm cho văn hóa thích nghi, điều tiết sự phát triển bền vững đất nước.

Chương trình nâng cao chất lượng, hiệu quả các hoạt động văn hóa chủ yếu. Bao gồm: Huy động sức mạnh toàn xã hội để bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, khích lệ sáng tạo các giá trị văn hóa mới; Bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, nhất là các di sản văn hóa được UNESCO công nhận; Phát triển đi đôi với giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, khắc phục tình trạng lạm dụng tiếng nước ngoài, giữ gìn và phát huy di sản văn hóa các dân tộc thiểu số - nhất là tiếng nói, chữ viết, trang phục, lễ hội truyền thống...

Chương trình phát triển đời sống văn học - nghệ thuật trên cả 3 lĩnh vực: sáng tác, quảng bá, lý luận phê bình. Tiếp tục quán triệt sâu sắc 3 mục tiêu, 3 quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 16/6/2008 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới” để triển khai đồng bộ các giải pháp liên quan đến: tạo mọi điều kiện cho sự tìm tòi sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ để có nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân tộc, dân chủ, tiến bộ; đẩy mạnh sáng tác, quảng bá các tác phẩm về đề tài cách mạng, kháng chiến, lịch sử dân tộc và công cuộc đổi mới đất nước; đẩy mạnh hoạt động sáng tác và quảng bá các tác phẩm lý luận phê bình để đồng hành, thẩm định, định hướng cho sáng tác và tiếp nhận các tác phẩm văn học - nghệ thuật, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái trong văn học - nghệ thuật; tập trung hoàn thiện đồng bộ các cơ chế, chính sách phát triển văn học - nghệ thuật...

Chương trình sắp xếp lại hệ thống báo chí đáp ứng yêu cầu phát triển, đảm bảo thiết thực, hiệu quả. Tăng cường các giải pháp tư tưởng và tổ chức để quản lý có hiệu quả các loại hình thông tin trên mạng internet nhằm định hướng tư tưởng thẩm mỹ cho nhân dân, nhất là thanh thiếu niên. Coi trọng đổi mới phương thức hoạt động và cơ chế đầu tư theo hướng ưu tiên cho các cơ quan báo chí truyền thông chủ lực. Đảm bảo các cơ quan truyền thông phải thực hiện đúng tôn chỉ mục đích đối tượng phục vụ chủ yếu. Nâng cao tính tư tưởng nhân văn, khoa học của các tác phẩm báo chí - truyền thông, góp phần xây dựng văn hóa, con người Việt Nam trong thời ký mới.

Ngoài ra còn có thể bàn tới các chương trình bộ phận như: Chương trình phát triển công nghiệp văn hóa và hoàn thiện thị trường văn hóa; Chương trình hội nhập quốc tế về văn hóa và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại...

Cùng với những nhiệm vụ trên, theo chúng tôi, Ban Chỉ đạo cần xác định đúng để tập trung chỉ đạo một số khâu đột phá nhằm tạo động lực mạnh mẽ cho sự nghiệp chấn hưng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong thời kỳ mới. Theo đó, xin được tham góp gợi mở một số khâu đột phá như sau:

Thứ nhất, đột phá xây dựng một số môi trường văn hóa trên cơ sở sớm hình thành hệ giá trị văn hóa quốc gia và hệ giá trị chuẩn mực con người Việt Nam. Chỉ đạo đột phá vào khâu xây dựng văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan Nhà nước và hệ thống chính trị; đột phá xây dựng môi trường văn hóa học đường để môi trường này thực sự là “địa chỉ tin cậy” nhất về giáo dục, rèn luyện con người về lý tưởng, phẩm chất, nhân cách, lối sống; đột phá xây dựng môi trường văn hóa trong các doanh nghiệp, để văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân thực sự là sức mạnh nội sinh cho các doanh nghiệp Việt và nền kinh tế Việt Nam phát triển bền vững.

Thứ hai, trong nhiệm kỳ này cơ bản hoàn thành việc thể chế hóa Nghị quyết Đại hội XIII về văn hóa, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, từ đó, tạo hành lang pháp lý và loại bỏ được các rào cản nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Trong quá trình thể chế hóa cần coi trọng ban hành luật về tự do sáng tạo trong khoa học và văn hóa, văn học - nghệ thuật; hoàn thiện đồng bộ cơ chế, chính sách có hiệu quả trong phát hiện, đào tạo, phát huy tài năng văn hóa, văn học - nghệ thuật.

Biểu diễn Quan họ trên dòng sông di sản Tràng An, tỉnh Ninh Bình.

(Ảnh minh họa: Lương Văn Lâm/nhiepanhdoisong.vn)

Thứ ba, tập trung lãnh đạo để công nghiệp văn hóa Việt Nam có bước phát triển đột phá gắn với phát triển và hoàn thiện thị trường văn hóa. Trên cơ sở đó khai thác và phát huy mạnh mẽ những tiềm năng và giá trị đặc sắc của văn hóa Việt Nam gắn với công nghệ hiện đại, hình thành nên các sản phẩm văn hóa có chất lượng cao, thông qua thị trường văn hóa mở rộng đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của toàn dân; mở rộng quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới và đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế của đất nước.

Thứ tư, đột phá xây dựng đồng bộ cơ chế, chính sách để huy động tối đa mọi nguồn lực cho thực hiện thành công sự nghiệp chấn hưng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong thời kỳ mới. Trong đó, tăng mức đầu tư từ ngân sách nhà nước và các địa phương vào dòng chủ lưu của văn hóa cách mạng; tập trung hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách để đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, văn học - nghệ thuật và xây dựng thị trường văn hóa lành mạnh./.

Phát triển văn hóa là một trong những vấn đề trọng tâm, một nội dung nổi bật trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Đây là lần đầu tiên trong Văn kiện Đại hội Đảng, Đảng ta đã để cập một cách toàn diện, sâu sắc đến lĩnh vực văn hóa từ chủ đề của Đại hội đến các quan điểm mục tiêu, định hướng lớn, nhiệm vụ trọng tâm, đột phá chiến lược.

(theo tuyengiao.vn)

(1) (2) (3) (4) Bài phát biểu chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng về lĩnh vực văn hóa, ngày 24/11/2021.

Tin liên quan

Đọc thêm

Hiệp định Pari - thắng lợi có ý nghĩa chiến lược dẫn đến đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước

Tác giả: TS. Vũ Ngọc Lương

(LLCT&TT) Hội nghị Paris là cuộc đụng đầu ngoại giao tay đôi đầu tiên giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, kết thúc bằng Hiệp định Paris. Hiệp định Paris đã góp phần tạo nên bước ngoặt rất quan trọng trong cuộc kháng chiến của dân tộc ta, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, từng bước đi vào giải pháp, chấm dứt chiến tranh và can thiệp ở Việt Nam. Việc Mỹ buộc phải “cút” khỏi miền Nam đã mở ra cục diện chính trị và chiến trường thuận lợi để quân và dân ta tiến tới “đánh cho ngụy nhào” mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Khai thác giá trị văn hóa tín ngưỡng, tôn giáo trong phát triển du lịch ở nước ta

Tác giả: TS. Bùi Hồng Thanh

(LLCTTTĐT) Du lịch đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế, xã hội, góp phần thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển, nâng cao mức sống cho người dân và được cụ thể bằng quan điểm Đảng và Nhà nước ta phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Cùng với đó, những quan điểm về tôn giáo trong thời kỳ đổi mới là bệ phóng để nhiều địa phương trong cả nước từng bước mạnh dạn khai thác và phát huy những giá trị của tín ngưỡng, tôn giáo. Tuy nhiên, khai thác những giá trị văn hóa tín ngưỡng, tôn giáo để phát triển du lịch nói chung ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế. Điều này phần nào được lý giải trong khi có nhiều người nhận thức được giá trị tích cực của tín ngưỡng, tôn giáo và thấy cần thiết phải khai thác, phát huy thì cũng có không ít người còn dè dặt về tính phức tạp, nhạy cảm của nó. Do đó, việc nhận diện khách quan những giá trị văn hóa tín ngưỡng, tôn giáo để có những định hướng nhằm khai thác hiệu quả, phát huy lợi thế trong bối cảnh hiện nay là hết sức cần thiết.

Ăngghen bàn về chủ nghĩa xã hội pháp quyền

Tác giả: TSKH. Đặng Huy Trinh

(TG) - Sau khi hai tác phẩm kinh điển “Tinh thần pháp luật” của Montesquieu và “Bàn về khế ước xã hội” của Rousseau chuyển bị về mặt lý luận cho Cách mạng dân chủ tư sản Pháp ra đời người ta thường nói đến thuộc tính pháp quyền gắn liền với nền dân chủ tư sản, người ta nói đến nhà nước pháp quyền tư sản, hệ thống dân chủ tư sản. Đến chủ nghĩa xã hội thì thuộc tính pháp quyền này lại ít được nhắc đến. Liệu chủ nghĩa xã hội có mang thuộc tính pháp quyền hay không và thuộc tính pháp quyền này khác với thuộc tính pháp quyên dân chủ tư sản như thế nào?

Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào trong bối cảnh mới

Tác giả: PGS, TS Hoàng Văn Nghĩa - TS Nguyễn Văn Dương

(LLCT) - Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản, cùng các thế hệ lãnh đạo và nhân dân hai nước không ngừng xây dựng, vun đắp. Bài viết khái quát mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào theo phương châm “hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện”, từ đó đề xuất một số giải pháp tăng cường hợp tác toàn diện giữa Việt Nam - Lào trên các lĩnh vực, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội hai nước đáp ứng yêu cầu bối cảnh mới.

Chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên là nền tảng xây dựng đạo đức công vụ

Tác giả: Bảo Châu

(TG) - Việc xây dựng chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên có vai trò quan trọng đối với việc củng cố uy tín, năng lực của mỗi cán bộ, đảng viên; góp phần tạo động lực hoàn thành nhiệm vụ chính trị, giữ vững vị thế cầm quyền của Đảng. Việc xây dựng chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên làm nền tảng xây dựng đạo đức công vụ là yêu cầu, nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài, đáp ứng yêu cầu cách mạng trong giai đoạn mới.