Chủ nhật, ngày 28/01/2024, 17:23

Khai thác giá trị văn hóa tín ngưỡng, tôn giáo trong phát triển du lịch ở nước ta

TS. Bùi Hồng Thanh
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

(LLCTTTĐT) Du lịch đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế, xã hội, góp phần thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển, nâng cao mức sống cho người dân và được cụ thể bằng quan điểm Đảng và Nhà nước ta phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Cùng với đó, những quan điểm về tôn giáo trong thời kỳ đổi mới là bệ phóng để nhiều địa phương trong cả nước từng bước mạnh dạn khai thác và phát huy những giá trị của tín ngưỡng, tôn giáo. Tuy nhiên, khai thác những giá trị văn hóa tín ngưỡng, tôn giáo để phát triển du lịch nói chung ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế. Điều này phần nào được lý giải trong khi có nhiều người nhận thức được giá trị tích cực của tín ngưỡng, tôn giáo và thấy cần thiết phải khai thác, phát huy thì cũng có không ít người còn dè dặt về tính phức tạp, nhạy cảm của nó. Do đó, việc nhận diện khách quan những giá trị văn hóa tín ngưỡng, tôn giáo để có những định hướng nhằm khai thác hiệu quả, phát huy lợi thế trong bối cảnh hiện nay là hết sức cần thiết.

Đại Lễ Phật đản tại thành phố Huế. Ảnh VOV

Xu hướng toàn cầu hoá hội nhập quốc tế, du lịch đã trở thành một ngành kinh tế phổ biến không chỉ ở các nước phát triển mà còn ở các nước đang phát triển không ngoại trừ Việt Nam. Du lịch đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế, xã hội, góp phần thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển, tăng thu ngoại tệ, cải thiện kết cấu hạ tầng, tạo việc làm, nâng cao mức sống cho người dân. Nhận thức rõ điều này, Đảng và Nhà nước ta đã nêu rõ quan điểm về phát triển du lịch là huy động mọi nguồn lực, khai thác tiềm năng cả nước và của từng địa phương, tăng đầu tư phát triển du lịch để đảm bảo du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn. Cùng với đó, những quan điểm của Đảng về tín ngưỡng, tôn giáo trong thời kỳ đổi mới là bệ phóng để nhiều địa phương trong cả nước từng bước mạnh dạn khai thác và phát huy những giá trị của tín ngưỡng, tôn giáo đối với “ngành công nghiệp đẻ trứng vàng”. Trước hết, đó là sự ra đời của Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị Về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới. Nghị quyết đã khẳng định: “Tôn giáo, tín ngưỡng là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới”(1). Tiếp đến là Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban chấp hành Trung ương Về công tác tôn giáo là sự phát triển nâng cao, hoàn chỉnh Nghị quyết số 24-NQ/TW và trở thành quan điểm chính thức về đổi mới đối với công tác tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. Gần nhất, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã khẳng định : “Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự phát triển đất nước(2). Tuy nhiên, trong khi có nhiều người nhận thức được giá trị tích cực của tín ngưỡng, tôn giáo và thấy cần thiết phải khai thác, phát huy thì cũng có không ít người còn dè dặt về tính phức tạp, nhạy cảm của nó. Việc sử dụng, khai thác và phát huy những giá trị văn hóa tín ngưỡng, tôn giáo để phát triển du lịch nói chung ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế. Do đó, việc nhận diện khách quan những giá trị văn hóa tín ngưỡng, tôn giáo để có những định hướng nhằm khai thác hiệu quả, phát huy lợi thế trong bối cảnh hiện nay là hết sức cần thiết.

Ở Việt Nam, mặc dù còn có những tranh luận, những nhận xét khác nhau khi bàn về giá trị văn hóa của tín ngưỡng, tôn giáo. Nhưng chúng ta không thể phủ nhận, phần lớn các tôn giáo, nhất là các tôn giáo lớn, có số lượng tín đồ đông như Phật giáo, Công giáo, Cao Đài, Hòa Hảo và cả những tôn giáo có số lượng tín đồ ít hay như một số loại hình tín ngưỡng dân gian thì đều có nét độc đáo đặc sắc tạo nên văn hóa tôn giáo đóng góp quan trọng trong nền văn hóa Việt Nam đa dạng và giàu bản sắc. Nhận thức một cách khoa học, khách quan về văn hóa tôn giáo là căn cứ để nhận diện rõ hơn vấn đề giá trị văn hóa của tôn giáo. Những giá trị văn hóa của tôn giáo được hình thành và hiện diện xung quanh thế giới quan, nhân sinh quan tôn giáo. Nó biểu hiện ra một cách phong phú và đầy đủ bằng các hình ảnh, quan niệm, khái niệm, huyền thoại, truyền thuyết, định hướng ý thức và hành vi của con người vào các thực thể, thuộc tính, các mối liên hệ nhằm thỏa mãn nhu cầu đa dạng của con người. Như vậy, nói đến những giá trị văn hóa của tôn giáo là nói đến những biểu hiện cụ thể của văn hóa và nó được biểu hiện dưới dạng văn hóa phi vật thể và văn hóa vật thể.

Giá trị văn hóa phi vật thể của tôn giáo, tín ngưỡng được nhận diện qua niềm tin nội tâm, chuẩn mực đạo đức lối sống, ẩm thực, giao tiếp, ứng xử, hệ thống lễ hội và có những ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Giáo sư Ngô Đức Thịnh đã viết: “Cùng với sự ảnh hưởng ngày càng sâu rộng của Phật giáo sang các xã hội Âu - Mỹ, cùng với việc thích ứng với một thế kỷ nhiều biến động và thách đố như hiện nay, thế kỷ mà người ta cần đến tâm linh hơn bao giờ hết thì Phật giáo, lối sống Phật giáo đã và đang có sức hấp dẫn đặc biệt, nhất là với đời sống cá nhân. Tự giải thoát của nhà Phật có gì đó như một trong những giải pháp được nhiều người lựa chọn để tìm lại sự cân bằng, sự hài hòa giữa biến động về vật chất và thế giới tinh thần. Đây là lý do căn bản khiến cho vấn đề văn hóa Phật giáo ở nước ta hiện nay càng có sức cuốn hút với nhiều tầng lớp nhân dân(3), khi đánh giá về những ảnh hưởng của Phật giáo đặc biệt là việc tìm ra những giải pháp để tìm lại sự cân bằng trong đời sống xã hội.

Đối với niềm tin nội tâm: Tín ngưỡng, tôn giáo luôn gắn liền với đức tin, dù đức tin đó không dựa trên cơ sở của khoa học, thực nghiệm, nhưng tín ngưỡng, tôn giáo vẫn có những giá trị riêng của nó, mà nếu hiểu rõ về nó, chúng ta có thể biến đức tin thành niềm tin vào xã hội, khiến con người có thể vượt lên chính mình, quy tụ họ cùng thực hiện một mục tiêu và lý tưởng nào đó. Mặt khác, cuộc sống của con người không phải lúc nào cũng chỉ có lý trí và khoa học, bên cạnh những vấn đề của lý trí, của khoa học con người rất cần đến tình cảm và tâm linh. Với những chuẩn mực đạo đức, lối sống: các tôn giáo nhìn chung đều khuyên răn con người làm điều lành, tránh điều dữ, hướng thiện. Những điều đó được ghi nhận và giảng giải trong các giới luật, các điều răn, lời khuyên của các tôn giáo, như: Mười điều răn của Đức Chúa trời, Sáu điều răn của Hội Thánh, Tứ đại điều quy của đạo Cao Đài, Tám điều răn của Phật giáo Hòa Hảo,... và đặc biệt sự hình thành và phát triển đạo đức của quần chúng, tín đồ tôn giáo chịu ảnh hưởng không ít của giới răn (giới luật) của Phật giáo. Lối sống đó là sự hòa hợp giữa đời sống tâm linh (hướng tới cái thiêng vô hình) và đời sống thế tục (hướng đến các thiết yếu hữu hình). Giá trị của lối sống tâm linh là hướng về nội tâm, hướng về cái thiện, tu nhân tích đức. Nhìn chung, những chuẩn mực của đạo đức tôn giáo có đặc điểm là dễ hiểu, dễ thực hiện và rèn luyện, dễ kiểm soát của cộng đồng. Với văn hóa ẩm thực: Trong văn hóa ẩm thực của từng tôn giáo có bản sắc riêng, như: Ăn chay (Phật giáo), kiêng ăn thịt bò (đạo Hinđu), kiêng thịt lợn, cấm rượu bia (đạo Hồi), không uống rượu bia (đạo Tin lành),... Nét đặc trưng trong văn hóa ẩm thực của nhiều tôn giáo là hướng về nguồn thức ăn thực vật, không sát sinh, ăn thanh đạm, đúng giờ, đúng liều lượng. Với trang phục: Có sự thống nhất theo chức sắc, phẩm chật, dòng tu, theo giới; trang phục kín đáo, đơn giản,... phải mặc lễ phục khi hành lễ. Phật giáo Bắc tông mặc màu nâu, Phật giáo Nam tông mặc màu vàng, hàng giáo phẩm Công giáo mặc màu đen, các tu sỹ mặc màu lam, đạo Cao Đài mặc màu trắng, Phật giáo Hòa Hảo mặc màu đen,...Với giao tiếp ứng xử: Giao tiếp ứng xử của các tôn giáo có khác nhau tùy theo các đối tượng được giao tiếp, như với thần thánh, với bề trên, với đồng đạo và với tôn giáo khác,... nhưng đều thể hiện ở thái độ, cử chỉ, xưng hô, động tác nhẹ nhàng, trân trọng, kín đáo,... có tính giáo dục cao. Với lễ hội: Lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo thường có hai yếu tố cấu thành, phần lễ và phần hội. Phần lễ được thể hiện theo quy định ổn định, mang tính trang nghiêm và thành kính. Còn phần hội thường có các trò chơi dân gian, diễn lại các tích. Lễ hội có nhiều loại hình khác nhau, có loại hình mang tính quốc tế, như: Lễ Vesak của Phật giáo; lễ Giáng Sinh, Phục Sinh của Kitô giáo; lễ hội hành hương về Thánh địa Mecca của Hồi giáo,... Bên cạnh những lễ hội truyền thống mang tính quốc gia còn có những lễ hội dân gian mang tính địa phương được diễn ra thường xuyên trong phạm vi ở một tỉnh, huyện, xã, thôn xóm, khu dân cư,... Giáo sư Ngô Đức Thịnh cho rằng: “Lễ hội là một hình thức diễn xướng tâm linh, nó không còn là một thế giới hiện thực, “trần tục” nữa mà nó vươn lên thế giới biểu tượng, linh thiêng. Nó tái hiện lại lịch sử tự nhiên, lịch sử xã hội trong một “thời điểm mạnh”, thời điểm có giá trị đặc biệt, thời điểm thiêng, khác với thời gian thường ngày”(4).

Lễ hội mang lại hiệu ứng tích cực trên nhiều khía cạnh của đời sống xã hội, là sự biểu dương của sức mạnh và sự cố kết cộng đồng. Lễ hội giúp cân bằng đời sống tâm linh, đưa con người hướng về sự cao cả, thánh thiện, hướng đến những giá trị về chân thiện mỹ. Không dừng lại lễ hội còn đưa con người trở về nguồn gắn với những hoạt động văn hóa,... Chính vì vậy lễ hội thường gắn với, đúng hơn là thúc đẩy các hoạt động hành hương, du lịch.

Bên cạnh các giá trị văn hóa phi vật thể thì kiến trúc cảnh quan, thiết chế tôn giáo lại chính là biểu hiện của giá trị văn hóa của tín ngưỡng, tôn giáo vật thể.

Với kiến trúc và cảnh quan: Các công trình kiến trúc tín ngưỡng, tôn giáo có mục đích đáp ứng yêu cầu về nơi thờ tự và các hoạt động khác của tín ngưỡng, tôn giáo. Phong cách kiến trúc của mỗi tôn giáo hay tín ngưỡng đều có những nét đặc trưng riêng. Đó là những công trình kiến trúc của Phật giáo theo kiểu phương đình, mái lợp ngói nam, các đầu đốc uốn mái cong, cổ kính, thâm nghiêm; Kiến trúc của nhà thờ Công giáo theo kiểu Gothic bề thế, với tháp chuông cao; Kiến trúc nhà thờ Tin lành với quy mô nhỏ, đơn giản; Kiến trúc của Hồi giáo mái vòm; Kiến trúc của đạo Cao Đài dung hòa giữa phương Đông và phương Tây với hai lầu chuông trống,... Trong đó, có nhiều công trình kiến trúc tín ngưỡng, tôn giáo đã trở thành di sản văn hóa của quốc gia và là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Các công trình tín ngưỡng, tôn giáo là một tập hợp các công trình kiến trúc với khuôn viên và môi trường tự nhiên được phối hợp hài hòa tạo ra những nét khác biệt và độc đáo của từng tín ngưỡng, tôn giáo.

Với đồ dùng việc đạo, bao gồm tượng thờ, bia, kinh sách, tranh ảnh, hoành phi, câu đối, chuông, khánh,... chứa đựng các giá trị tinh thần và vật chất quý báu của tổ chức tôn giáo cũng như của cộng đồng dân cư.

Với thiết chế tôn giáo: Bao gồm các quy định phẩm chật, chức sắc tôn giáo, các ngày lễ và nghi thức hành lễ; các quy định và các điều được phép, các điều cấm kỵ, các hội - đội, nhóm phục vụ sinh hoạt tôn giáo, như: Hội ca đoàn, hội kèn, hội trống, hội quy, phường bát âm,... cùng các phương tiện và phương thức cử hành lễ hội, như: kiệu, rước lễ,...

Về phương diện văn hóa vật thể của tín ngưỡng, tôn giáo cũng có những điều còn hạn chế, không phù hợp với đời sống của xã hội hiện đại, song đã để lại các giá trị văn hóa lâu đời, có ảnh hưởng lớn đến nền văn hóa của dân tộc, chẳng hạn như những đóng góp của đạo Công giáo trong việc du nhập văn minh phương Tây vào nước ta, như: Việc ra đời chữ quốc ngữ, báo chí, văn học, kiến trúc, đội ngũ trí thức,... và dần dần cho đến cả lối sống.

Rõ ràng, sự phong phú, đa dạng của các loại hình tín ngưỡng, tôn giáo, lễ hội tạo nên văn hóa tôn giáo và chứa đựng trong đó những nét văn hóa đặc sắc có sức hấp dẫn lớn đối với du khách trong nước và quốc tế đến với nước ta. Các di tích tín ngưỡng, tôn giáo và lễ hội truyền thống ở nước ta là tài nguyên vô giá đối với sự phát triển của ngành kinh tế du lịch. Suốt chiều dài đất nước có nhiều cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo với đa dạng, phong phú các loại hình lễ hội. Giá trị tín ngưỡng, tôn giáo không chỉ ở phương diện văn hóa mà còn ở phương diện kinh tế, ở góc độ nào đó tín ngưỡng, tôn giáo đã góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển thông qua hoạt động du lịch. Tuy nhiên, thẳng thắn thừa nhận việc sử dụng, khai thác và phát huy những giá trị văn hóa tín ngưỡng, tôn giáo trong phát triển du lịch ở nước ta còn chưa xứng tầm với tiềm năng. Điều này, bước đầu có thể luận giải bằng một số tồn tại dưới đây:

Một là, vấn đề nhận thức, chủ trương chính sách chưa có sự thống nhất

Trên thế giới loại hình du lịch tâm linh đã ra đời từ rất lâu và ngày càng có xu hướng phát triển mạnh mẽ. Hiện tại có khoảng hơn 10.000 tôn giáo khác nhau trên thế giới, vấn đề tâm linh bao phủ toàn bộ cuộc sống của con người, luôn luôn phát sinh những nhu cầu từ tìm hiểu, khám phá tới thỏa mãn những đức tin của con người(5). Ở nước ta, những nhận thức đổi mới về tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta đã có tác động tích cực, mạnh mẽ đến hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo khắp cả nước. Đây chính là chỗ dựa vững chắc để lãnh đạo các cấp chính quyền, các đoàn thể xã hội, tổ chức tôn giáo và các tầng lớp nhân dân tiến hành xây dựng, phát triển các giá trị văn hóa tín ngưỡng tôn giáo đối với du lịch một cách hiệu quả và bền vững. Cùng với đó, việc nắm bắt được nhu cầu của người dân cũng như việc du lịch tâm linh ngày càng trở thành xu hướng phổ biến ở khắp cả nước. Thời gian qua, ngành du lịch nhiều địa phương đã có những giải pháp tích cực để thu hút du khách mà trọng tâm là tạo ra những tour, tuyến du lịch tâm linh và đã đạt được nhiều kết quả tích cực đang trở thành động lực thúc đẩy ngành kinh tế du lịch phát triển. Mặc dù vậy, việc triển khai chủ trương, chính sách về khai thác các giá trị văn hóa tôn giáo, tín ngưỡng còn thiếu tính thống nhất trên toàn quốc. Trong khi có nhiều người nhận thức được giá trị tích cực của tín ngưỡng, tôn giáo và thấy cần thiết phải khai thác, phát huy thì cũng có không ít người còn dè dặt về tính phức tạp, nhạy cảm của nó. Nhiều địa phương có lợi thế về tôn giáo, tín ngưỡng thiếu tính chủ động trong tham mưu đề xuất việc phát triển du lịch và chưa bám sát vào điều kiện thực tế, cũng như sự chỉ đạo của địa phương về phát triển du lịch.. Chưa xây dựng một chiến lược phát triển lâu dài du lịch nói chung và du lịch tâm linh nói riêng thậm chí còn mang tính thời vụ. Vì vậy, hiệu quả thu được từ du lịch tâm linh trong thời gian qua chưa phản ánh đúng giá trị của văn hóa tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta.

Hai là, vấn đề chất lượng nguồn nhân lực làm công tác du lịch đặc biệt phục vụ hoạt động khai thác giá trị văn hóa tôn giáo, tín ngưỡng còn nhiều hạn chế.

Đội ngũ làm công tác phục vụ cho hoạt động du lịch trình độ chuyên môn nghiệp vụ chưa cao, thiếu kinh nghiệm. Việc đào tạo còn phân tán, manh mún thiếu sự chuyên nghiệp. Đặc biệt là những người trực tiếp tham gia, phần lớn là những người dân đang sinh sống ở địa phương, trình độ hiểu biết và văn hóa giao tiếp còn nhiều hạn chế, chưa tạo được thiện cảm của khách hàng. Điều đó làm ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng, cũng như thu hút du khách đến với du lịch tôn giáo, tín ngưỡng ở một số địa phương. Từ hạn chế từ nguồn nhân lực đặc biệt là nhân lực am hiểu về lĩnh vực đặc thù này nên chưa thực sự có nhiều ý tưởng đột phá để phát triển và đa dạng hóa các sản phẩm du lịch đặc biệt là các sản phẩm truyền thống gắn với từng địa phương. Điều này giảm sự hấp dẫn đối với du khách tới tham quan, chiêm bái, lưu trú và sử dụng dịch vụ.

Ba là, vấn đề đất đai phục vụ cho các hoạt động khai thác các giá trị tín ngưỡng, tôn giáo ở nhiều địa phương còn nhiều bất cập.

Sự đồng thuận giữa người dân địa phương với chính quyền, cơ quan quản lý du lịch và các tổ chức, cá nhân làm du lịch chưa cao, còn có những hiện tượng khiếu kiện, tranh chấp quyền sở hữu đất đai với số lượng đông người diễn ra hết sức phức tạp gây mất trật tự xã hội.

Thứ tư, về công tác quản lý nhà nước về du lịch còn bộc lộ những hạn chế, bất cập, chưa tương xứng với yêu cầu phát triển.

Những yếu kém trong quản lý du lịch lữ hành, quản lý chất lượng các dịch vụ du lịch còn kéo dài, chưa được giải quyết dứt điểm. Công tác tuyên truyền, quảng bá còn thiếu tính chuyên nghiệp. Vấn đề bảo vệ môi trường tại các khu, điểm du lịch vẫn còn thờ ơ. vấn đề ổn định an ninh trật tự ở các khu, điểm du lịch tâm linh cũng đang được dư luận xã hội quan tâm. Công tác tổ chức, quản lý các hoạt động du lịch tâm linh chưa thực sự khoa học còn nhiều bất cập. Tình trạng mất ổn định an ninh trật tự ở các địa điểm du lịch tâm linh cũng đang được dư luận xã hội quan tâm. Điều này xuất phát từ sự chồng chéo của nhiều đơn vị quản lý trong khẩu tổ chức dẫn đến tình trạng mất an ninh trật tự trong khu vực lễ hội, khu du lịch.

Tóm lại, những giá trị văn hóa của tín ngưỡng, tôn giáo vừa mang tính nhân văn, vừa mang tính phổ biến, tạo nên sự đa dạng và phong phú của nền văn hóa Việt Nam. Trong điều kiện thực tiễn ở Việt Nam hiện nay đặt ra là làm thế nào để phát huy, kế thừa, chọn lọc cho được những giá trị văn hóa của tín ngưỡng, tôn giáo trong phát triển kinh tế du lịch nói chung và du lịch tâm linh nói riêng ở nước ta. Tiếp tục phát huy những thành tựu đã đạt được trong thời gian qua và có kế hoạch giải quyết tốt, triệt để những vấn đề tồn tại, yếu kém mà thực tế đang đặt ra. Đây là một bài toán không đơn giản, cần phải có sự chung tay của cả hệ thống chính trị, của người dân, thực hiện đồng bộ các giải pháp một cách hữu hiệu.

(Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông điện tử lyluanchinhtrivatruyenthong.vn)

(1) Bộ Chính trị (1990), Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới, Hà Nội, tr2.

(2) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, T.I, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, H., tr.171.

(3) Ngô Đức Thịnh và các cộng sự (2014), Giá trị văn hóa Việt Nam truyền thống và biến đổi, Nxb. Chính trị quốc gia, H., tr.277.

(4) Ngô Đức Thịnh (2007), Về tín ngưỡng lễ hội cổ truyền, Nxb. Văn hóa - Thông tin, H., tr.342.

(5) https://dulichvanhoa.vn/du-lich-van-hoa-tam-linh/


Tin liên quan

Đọc thêm

Hiệp định Pari - thắng lợi có ý nghĩa chiến lược dẫn đến đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước

Tác giả: TS. Vũ Ngọc Lương

(LLCT&TT) Hội nghị Paris là cuộc đụng đầu ngoại giao tay đôi đầu tiên giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, kết thúc bằng Hiệp định Paris. Hiệp định Paris đã góp phần tạo nên bước ngoặt rất quan trọng trong cuộc kháng chiến của dân tộc ta, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, từng bước đi vào giải pháp, chấm dứt chiến tranh và can thiệp ở Việt Nam. Việc Mỹ buộc phải “cút” khỏi miền Nam đã mở ra cục diện chính trị và chiến trường thuận lợi để quân và dân ta tiến tới “đánh cho ngụy nhào” mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Khơi thông mọi nguồn lực phát triển văn hóa, con người Việt Nam

Tác giả: PGS. TS. Đào Duy Quát

(TG) - Chấn hưng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong thời kỳ mới là sứ mệnh vô cùng vẻ vang nhưng rất khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải “tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước nhằm đảm bảo sự thống nhất về tư tưởng và hành động trong xây dựng và phát triển văn hóa từ Trung ương tới cơ sở”, đồng thời “huy động tối đa các nguồn lực để phát triển văn hóa”.

Ăngghen bàn về chủ nghĩa xã hội pháp quyền

Tác giả: TSKH. Đặng Huy Trinh

(TG) - Sau khi hai tác phẩm kinh điển “Tinh thần pháp luật” của Montesquieu và “Bàn về khế ước xã hội” của Rousseau chuyển bị về mặt lý luận cho Cách mạng dân chủ tư sản Pháp ra đời người ta thường nói đến thuộc tính pháp quyền gắn liền với nền dân chủ tư sản, người ta nói đến nhà nước pháp quyền tư sản, hệ thống dân chủ tư sản. Đến chủ nghĩa xã hội thì thuộc tính pháp quyền này lại ít được nhắc đến. Liệu chủ nghĩa xã hội có mang thuộc tính pháp quyền hay không và thuộc tính pháp quyền này khác với thuộc tính pháp quyên dân chủ tư sản như thế nào?

Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào trong bối cảnh mới

Tác giả: PGS, TS Hoàng Văn Nghĩa - TS Nguyễn Văn Dương

(LLCT) - Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản, cùng các thế hệ lãnh đạo và nhân dân hai nước không ngừng xây dựng, vun đắp. Bài viết khái quát mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào theo phương châm “hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện”, từ đó đề xuất một số giải pháp tăng cường hợp tác toàn diện giữa Việt Nam - Lào trên các lĩnh vực, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội hai nước đáp ứng yêu cầu bối cảnh mới.

Chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên là nền tảng xây dựng đạo đức công vụ

Tác giả: Bảo Châu

(TG) - Việc xây dựng chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên có vai trò quan trọng đối với việc củng cố uy tín, năng lực của mỗi cán bộ, đảng viên; góp phần tạo động lực hoàn thành nhiệm vụ chính trị, giữ vững vị thế cầm quyền của Đảng. Việc xây dựng chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên làm nền tảng xây dựng đạo đức công vụ là yêu cầu, nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài, đáp ứng yêu cầu cách mạng trong giai đoạn mới.