Thứ Hai, ngày 01/04/2024, 00:52

Vững bước đi theo Chủ nghĩa Mác-Lênin là sự lựa chọn đúng đắn, tất yếu của Đảng và Dân tộc Việt Nam

Nguyễn Thị Dung - Kiều Hưng
Trường Đại học Công nghiệp Việt-Hung

(GDLL) - Chủ nghĩa Mác - Lênin mãi luôn là thành tựu vĩ đại trong sự phát triển của tư duy và trí tuệ loài người về lý luận phát triển xã hội. Lý luận của học thuyết này được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng, phát triển sáng tạo vào điều kiện thực tiễn cách mạng, đưa dân tộc Việt Nam tiến lên hiện thực hóa khát vọng hùng cường. Bài viết khẳng định sự lựa chọn chủ nghĩa Mác - Lênin của Đảng và dân tộc Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn; đồng thời, phản bác các luận điệu sai trái, xuyên tạc, phủ nhận vai trò của chủ nghĩa Mác - Lênin trong sự nghiệp cách mạng của Việt Nam.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chủ trì cuộc họp Bộ Chính trị, Ban Bí thư cho ý kiến tổng kết Nghị quyết 23 về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh" (ảnh minh họa từ Thông tấn xã Việt Nam news.vnanet.vn)

Đặt vấn đề

Sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và từng bước tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam là quá trình không ngừng vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn. Thực tế đã khẳng định sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng đã đạt được những thành tựu vĩ đại. Chủ nghĩa Mác - Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng. Tuy nhiên, các thế lực thù địch đang tìm mọi cách thức, thủ đoạn nhằm chống phá, xuyên tạc, phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng, âm mưu xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Vì vậy, việc khẳng định và lựa chọn chủ nghĩa Mác - Lênin của Đảng, dân tộc Việt Nam mãi là sự lựa chọn đúng đắn có ý nghĩa lý luận và giá trị thực tiễn sâu sắc.

1. Giá trị cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin

Chủ nghĩa Mác-Lênin ra đời vào giữa thế kỷ XIX, do C.Mác (1818 -1883) và Ph.Ăngghen (1820-1895) sáng lập, V.I.Lênin (1870 - 1924) bổ sung và phát triển trên cơ sở kế thừa những giá trị, thành tựu về trí tuệ, tư tưởng, tri thức khoa học của nhân loại và tiền đề thực tiễn kinh tế - xã hội. C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đã thể hiện rõ lý tưởng mà các ông theo đuổi cũng chính là khát vọng của nhân loại tiến bộ - với khát vọng, lý tưởng giải phóng hoàn toàn con người khỏi áp bức bóc lột, hướng tới ấm no, tự do, hạnh phúc - và thực tế các ông cũng đã đấu tranh không mệt mỏi để bảo vệ cho lý tưởng của mình. Giá trị cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin thể hiện ở một số điểm căn bản sau:

Một là, lần đầu tiên trong lịch sử, chủ nghĩa Mác - Lênin đã đưa ra cách giải thích khoa học về nguồn gốc, động lực phát triển của xã hội loài người nói chung, tính tất yếu ra đời, phát triển của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản nói riêng. Trước khi chủ nghĩa Mác ra đời, các nhà triết học, bao gồm cả các nhà triết học duy vật khi nghiên cứu lĩnh vực đời sống xã hội đều bị chi phối bởi thế giới quan duy tâm, tôn giáo. Theo đó giải thích hình thành, tồn tại và phát triển của lịch sử, của xã hội từ ý thức, tinh thần mà chủ yếu là do thượng đế, chúa trời, lực lượng siêu nhiên. Với lý luận về Hình thái kinh tế - xã hội, xuất phát từ thực tiễn, từ con người hiện thực, C.Mác đã khẳng định sự phát triển của xã hội loài người thực chất là sự thay thế các hình thái kinh tế - xã hội, thông qua cách mạng xã hội. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội được xem như là một cơ thể sống, luôn vận động, biến đổi bởi sự tác động mang tính biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Trong sự biến đổi đó, con người luôn giữ vai trò trung tâm, quan trọng nhất và quyết định sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội.

Hai là, chủ nghĩa Mác - Lênin đã khắc phục sự tách rời thế giới quan duy vật và phép biện chứng trong lịch sử của triết học. Trước chủ nghĩa Mác-Lênin, do hạn chế của lịch sử nên chủ nghĩa duy vật có nhược điểm là tính trực quan, siêu hình, còn phép biện chứng lại được phát triển trong cái vỏ duy tâm thần bí. Điều này khiến cho chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng tách rời nhau. Về phần mình, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nghiên cứu, tiếp thu tri thức của nhân loại, những thành tựu của khoa học nói chung và đặc biệt là thành tựu của học tự nhiên, phân tích thực tiễn đương thời, từ đó cải tạo, phát triển chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thành chủ nghĩa duy vật biện chứng. C.Mác đã tạo ra cuộc cách mạng thực sự trong triết học về xã hội, con người và được coi là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học - điều mà tất cả các nhà triết học trước đó chưa làm được.

Ba là, chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết duy nhất nêu mục tiêu chung là giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người (giải phóng nhân loại) và chỉ ra lực lượng, con đường, phương thức đạt mục tiêu ấy. Dù các nhà tư tưởng phương Tây xuyên tạc rằng chủ nghĩa Mác-Lênin đã bỏ “bỏ rơi” con người, “quên” con người, nhưng thực tế cả phương diện lý luận và thực tiễn lịch sử đã chứng tỏ rằng chỉ có chủ nghĩa Mác-Lênin mới khẳng định quần chúng Nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng; chỉ có công nhân là giai cấp cách mạng triệt để nhất. Điều đó đã chỉ ra cho xã hội, đặc biệt là giai cấp công nhân, nhân dân lao động phương pháp luận đúng đắn để từng bước giải phóng con người khỏi mọi hình thức nô dịch, áp bức, bóc lột, bất công và từ đó được tự do phát triển toàn diện. Với sự ra đời của chủ nghĩa Mác, lần đầu tiên giai cấp công nhân tìm thấy vũ khí lý luận của mình là chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa Mác có được lực lượng vật chất của mình là giai cấp công nhân.

Bốn là, chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết mở, không ngừng đổi mới, phát triển cùng với sự phát triển của tri thức nhân loại. Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Lý luận của chúng tôi là lý luận của sự phát triển, chứ không phải là một giáo điều mà người ta phải học thuộc lòng và lắp lại một cách máy móc”[5. tr. 796]. V.I.Lênin nhấn mạnh: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”[6, tr.232]. Trên thực tế, trong quá trình hình thành và phát triển hệ thống quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, bản thân C.Mác và Ph.Ăngghen không phải ngay từ đầu đã là những người có thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp biện chứng duy vật, các ông đã từng là thành viên của phái Hêghen Trẻ trước khi trở thành những nhà biện chứng lỗi lạc. Còn V.I.Lênin, việc ông bổ sung nhiều luận điểm của triết học Mác cho phù hợp với điều kiện thực tiễn mới cũng như sự phát triển của khoa học đã giúp học thuyết của Mác trở thành học thuyết triết học phát triển. Vì vậy, phải luôn kiên định và đi theo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và trung thành với bản chất khoa học và cách mạng của nó để không ngừng phát triển, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin ngày càng hoàn thiện và gắn liền với thực tiễn.

2. Đấu tranh phản bác các luận điệu phủ nhận vai trò của chủ nghĩa Mác-Lênin đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

Một là, đấu tranh phản bác luận điệu cho rằng ngày nay chủ nghĩa Mác-Lênin đã lỗi thời lạc hậu, không còn phù hợp với lịch sử nói chung và với Việt Nam nói riêng.

Các thế lực thù địch, phản động viện dẫn lý do thời đại máy hơi nước và chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh - thời kỳ mà những quan điểm, học thuyết chủ nghĩa Mác - Lênin đưa ra để giải quyết những vấn đề của đời sống xã hội đã kết thúc, nhường chỗ cho thời đại của các cuộc cách mạng về khoa học và công nghệ, của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Chúng xuyên tạc rằng "ngày nay, chủ nghĩa Mác - Lênin không còn bắt kịp và phản ánh đúng đắn sự phát triển của lực lượng sản xuất và khoa học, công nghệ hiện đại; cả ba vị lãnh tụ của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đều xuất phát từ bối cảnh lịch sử của phương Tây; vì vậy, lý luận của các ông không thể giải quyết được các vấn đề có tính lịch sử và thời đại của các nước phương Đông, nhất là ở Việt Nam".

Chúng ta đều biết, chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX trong điều kiện thực tiễn của xã hội châu Âu, có nguồn gốc lý luận trực tiếp từ các nước phương Tây. Hiện nay, loài người đang sống trong thời đại rất khác so với thời đại của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin, với rất nhiều những biến đổi to lớn, sâu sắc, nhất là sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ. Tuy nhiên, những biến đổi đó vẫn không vượt ra ngoài những nguyên lý, phạm trù, quy luật chung nhất mà các ông đã khám phá ra như những quy luật phổ biến của phép biện chứng duy vật, những quy luật phổ biến về sự phát triển của xã hội loài người (quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, quy luật đấu tranh giai cấp, quy luật giá trị thặng dư...). Với chủ nghĩa duy vật lịch sử, C.Mác đã chỉ ra quy luật phát triển của xã hội loài người thực chất là sự thay thế các hình thái kinh tế - xã hội, thông qua cách mạng xã hội. Theo đó, cùng với khẳng định tính tất yếu của hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, C.Mác cũng chứng minh tính tất yếu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Học thuyết giá trị thặng dư, C.Mác đã chỉ ra mục đích và bản chất của chủ nghĩa tư bản là bóc lột giá trị thặng dư - nguồn gốc dẫn tới sự bất công, bất bình đẳng trong xã hội, từ đó đi đến khẳng định: “Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau”[4. tr. 613]. Thực tế cho thấy với nhiều thành tựu to lớn của mình, chủ nghĩa tư bản chưa bao giờ mang tính toàn cầu như ngày nay song nó vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản trong nội tại của nó.

Sau khi C.Mác và Ph.Ăngghen qua đời, V.I.Lênin đã kế thừa, vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết của C.Mác vào thực tiễn cách mạng ở Nga và thế giới, từ đó đề ra học thuyết về cách mạng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đế quốc chủ nghĩa. Trên cơ sở những nghiên cứu của mình V.I.Lênin phát hiện ra quy luật phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản và đi đến kết luận: cách mạng vô sản có thể thắng lợi ở một số nước hay thậm chí ở một nước riêng lẻ, nơi chủ nghĩa tư bản chưa phải là phát triển nhất, nhưng là khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền tư bản chủ nghĩa. Thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga đã chứng minh cho điều đó.

Đối với cách mạng Việt Nam, vào đầu những năm 20 của thế kỷ XX, sau khi đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất Những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã trở thành người Việt Nam đầu tiên tiếp thu vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện Việt Nam, hình thành tư tưởng của mình và tạo tiền đề quan trọng cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930. Thực tiễn cách mạng Việt Nam hơn 90 năm qua dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, đó là: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”[2. tr.322], đã khẳng định giá trị và sức sống vĩ đại của chủ nghĩa Mác - Lênin.

Hai là, đấu tranh phản bác quan điểm đối lập chủ nghĩa Mác - Lênin với tư tưởng Hồ Chí Minh, cho rằng chỉ cần tư tưởng Hồ Chí Minh không cần đến chủ nghĩa Mác-Lênin.

Các thế lực thù địch rêu rao rằng chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ khác mà còn đối lập về bản chất với tư tưởng Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, thực tế lịch sử đã minh chứng cho thấy các luận điệu xảo trá trên là không đúng sự thực mà chỉ nhằm âm mưu phủ nhận thành quả cách mạng của Đảng và vai trò lãnh đạo của Đảng với dân tộc Việt Nam.

Đầu thế kỷ XX, trước sự khủng hoảng về đường lối cứu nước, người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã lựa chọn con đường khác với tất cả những tiền bối để tìm đến con đường cứu nước thực sự tiến bộ. Người đã coi Luận cương của V.I.Lênin là “kim chỉ nam”, là “mặt trời soi sáng”, là “cẩm nang thần kỳ”. Sau khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh không chỉ tiếp thu, truyền bá vào Việt Nam mà còn không ngừng vận dụng, phát triển sáng tạo làm phong phú, sâu sắc học thuyết này trong điều kiện cụ thể của đất nước. Xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, Hồ Chí Minh cho rằng, cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa tuy có quan hệ chặt chẽ với cách mạng chính quốc, nhưng không hoàn toàn phụ thuộc cách mạng chính quốc, thậm chí có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản chính quốc. Khi nói về quy luật hình thành Đảng Cộng sản, V.I.Lênin khẳng định: Đảng Cộng sản ra đời từ sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân; khi vận dụng quy luật này trong điều kiện của một nước nông nghiệp lạc hậu, Hồ Chí Minh khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời từ sự kết hợp của chủ nghĩa Mác - Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại”[1. tr. 88].

Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh có cội nguồn và được hình thành từ việc tiếp thu các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hóa của nhân loại mà đỉnh cao là chủ nghĩa Mác - Lênin. Chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc lý luận quan trọng mang tính tiên quyết, là cơ sở chủ yếu cho sự hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Thông qua hoạt động trí tuệ và thực tiễn sáng tạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để nghiên cứu thực tiễn và tìm ra con đường cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là sự vận dụng sáng tạo, phát triển và làm phong phú chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện lịch sử mới, nó là sự kế thừa và phát triển một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam chứ nó không đối lập với chủ nghĩa Mác – Lênin như những gì mà các thế lực thì địch đang rêu rao.

Ba là, đấu tranh phản bác quan điểm cho rằng "Việt Nam đi theo con đường xã hội chủ nghĩa và kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là một sai lầm".

Sau khi các phong trào đấu tranh yêu nước đầu thế kỷ XX lần lượt thất bại, thời kỳ khủng hoảng về đường lối cứu nước và lãnh đạo giải phóng dân tộc - đất nước như không có đường ra. Năm 1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. Sau gần 10 năm bôn ba khắp các châu lục vừa lao động, tự học tập, vừa nghiên cứu lý luận, vừa nghiên cứu tìm hiểu thực tiễn các cuộc cách mạng trên thế giới. Và chỉ khi Nguyễn Ái Quốc đến với V.I.Lênin và cách Cách mạng tháng Mười Nga, Người đã rút ra được nhận định sâu sắc rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc. Người đã khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường làm cách mạng vô sản” [3. tr. 314].

Từ lý tưởng tiến bộ, cách mạng tìm được, Người đã vượt qua nhiều khó khăn thử thách, tích cực hoạt động, chuẩn bị về tư tưởng lý luận, đường lối chính trị, tổ chức cán bộ để đưa tới sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930. Như vậy, nền tảng của Đảng chính là chủ nghĩa Mác - Lênin, mục tiêu của Đảng là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Trải qua các thời kỳ, giai đoạn cách mạng khác nhau, dù thuận lợi hay trước khó khăn thách thức thì đi lên chủ nghĩa xã hội vẫn là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cũng chính vì vậy, Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định: “Tiếp tục kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và đường lối đổi mới của Đảng”[2. tr. 228-229].

Dưới ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng đã có được niềm tin của nhân dân, tập hợp được sức mạnh của quần chúng nhân dân để tiến hành cách mạng dân tộc nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa, cả trong đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay. Lịch sử đã khẳng định, ngay sau khi ra đời Đảng đã lãnh đạo Nhân dân thực hiện cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh (năm 1930) lập ra chính quyền của công nông theo kiểu Xô-vết; một Đảng chỉ mới 15 tuổi nhưng đã lãnh đạo nhân dân làm nên thắng lợi vĩ đại của Cách mạng tháng Tám năm 1945, lập ra Nhà nước Dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam châu Á, đưa Nhân dân lên địa vị người làm chủ đất nước. Sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng dưới ngọn cờ độc lập dân tộc là nhân tố quyết định sự thắng lợi của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ với chiến thắng lịch sử ngày 30/4/1975, thống nhất giang sơn về một mối; đặc biệt sau gần 40 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật.

Kết luận

Với hơn 90 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đã lãnh đạo Nhân dân lao động và toàn dân tộc không những giành được độc lập dân tộc, giải phóng nhân dân khỏi ách áp bức của chủ nghĩa thực dân và phong kiến tay sai mà còn đưa đất nước bước vào thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Với những thành tựu vĩ đại đạt được, Đảng đã khẳng định được vai trò là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cùng với việc phải luôn tỉnh táo nhận diện được các luận điệu thù địch, mỗi cán bộ đảng viên cần tiếp tục bổ sung, phát triển lý luận của Đảng, làm cho Đảng Cộng sản Việt Nam mãi là người lãnh đạo cách mạng Việt Nam, xứng đáng với niềm tin yêu mà nhân dân dành cho Đảng.

Tài liệu tham khảo:

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập II, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[3] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 9, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[4] C. Mác và Ph. Ăngghen (1999), Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[5] C. Mác và Ph. Ăngghen (1999), Toàn tập, tập 36, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[6] V. Lênin (1980), Toàn tập, tập 4, Nxb.Tiến bộ, Mátxcơva.

Đọc thêm

Đảng Cộng sản Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân

Tác giả: Ngô Hảo Nhi

(GDLL) - Giữ vững bản chất giai cấp công nhân, kiên quyết đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, xuyên tạc về bản chất giai cấp công nhân là hai nhiệm vụ có mối quan hệ chặt chẽ, đặt ra thường xuyên trong công tác xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. Bài viết nhận diện các luận điệu sai trái, lệch lạc và đưa ra các luận cứ, luận chứng cùng thực tiễn nhằm đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, thù địch xuyên tạc về bản chất giai cấp công nhân trong giai đoạn hiện nay.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong Tác phẩm “Thường thức chính trị” vào xây dựng Đảng bộ Học viện Chính trị khu vực I hiện nay

Tác giả: Nguyễn Vĩnh Thanh

(GDLL) - Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng của Người về xây dựng Đảng được thể hiện trong nhiều bài nói, bài viết, trong số đó “Thường thức chính trị” là tác phẩm nổi bật trình bày về nội dung xây dựng Đảng. Bài viết phân tích nội dung xây dựng Đảng trong tác phẩm và nêu lên những định hướng vận dụng vào công tác xây dựng Đảng tại Đảng bộ Học viện Chính trị khu vực I ngày càng trong sạch, vững mạnh, tiếp nối truyền thống tự hào, vẻ vang 70 năm hình thành và phát triển.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, thống nhất trong Đảng - giá trị vận dụng trong công tác xây dựng Đảng hiện nay

Tác giả: Lê Tuấn Vinh - Nguyễn Thị Thanh Nhàn

(GDLL) - Bài viết khái quát những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, thống nhất trong Đảng, đánh giá khái quát việc thực hiện nội dung này trong công tác xây dựng Đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nêu lên những vấn đề đặt ra và một số giải pháp nhằm phát huy giá trị cốt lõi này trong công tác xây dựng Đảng thời gian tới.

Phát triển tổ chức cơ sở đảng với vai trò là hạt nhân chính trị ở cơ sở, là cầu nối giữa Đảng với Nhân dân

Tác giả: PGS.TS. Lê Văn Cường

(TG) - Khái niệm tổ chức cơ sở đảng được gọi chung cho tất cả Đảng bộ cơ sở và chi bộ cơ sở tùy thuộc vào số lượng đảng viên và yêu cầu nhiệm vụ cụ thể từng đơn vị cơ sở. Thời gian qua, nội dung phát triển tổ chức cơ sở đảng với vai trò là hạt nhân chính trị, cầu nối giữa Đảng với Nhân dân luôn được Đảng Cộng sản Việt Nam chú trọng: “Chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên cũng từng bước được nâng lên, trên cơ sở thực hiện nghiêm các quy định của Đảng, đặc biệt là Kết luận của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII về vấn đề này”(1).

Nâng cao nhận thức về tư tưởng Hồ Chí Minh cho sinh viên Việt Nam hiện nay

Tác giả: Th.S Lê Đình Dương

(GDLL) - Hiện nay, các thế lực thù địch đang ra sức xuyên tạc nhằm phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh, thực chất là phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng. Đối tượng mà chúng hướng tới là thanh niên, nhất là sinh viên, những người nhạy bén với cái mới, nhưng còn thiếu vốn sống và kinh nghiệm thực tiễn, kiến thức về chính trị - xã hội. Bài viết nhấn mạnh sự cần thiết phải nâng cao nhận thức về tư tưởng Hồ Chí Minh cho sinh viên Việt Nam và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao nhận thức của sinh viên về tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay.