Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chủ
trì cuộc họp Bộ Chính trị, Ban Bí thư cho ý kiến tổng kết Nghị quyết 23 về phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ văn minh" (ảnh minh
họa từ Thông tấn xã Việt Nam news.vnanet.vn)
Đặt vấn đề
Sự nghiệp đấu
tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và từng bước tiến hành công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam là
quá trình không ngừng vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh vào thực tiễn. Thực tế đã khẳng định sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt
Nam dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng đã đạt được những thành
tựu vĩ đại. Chủ nghĩa Mác - Lênin tư
tưởng Hồ Chí Minh trở thành nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho mọi hành động
của Đảng. Tuy nhiên, các thế lực thù địch đang tìm mọi cách thức, thủ đoạn nhằm
chống phá, xuyên tạc, phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng, âm mưu xóa bỏ chế độ
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Vì vậy, việc khẳng định và lựa chọn chủ nghĩa Mác
- Lênin của Đảng, dân tộc Việt Nam mãi là sự lựa chọn đúng đắn có ý nghĩa lý
luận và giá trị thực tiễn sâu sắc.
1. Giá trị cách mạng và khoa học của chủ
nghĩa Mác - Lênin
Chủ nghĩa
Mác-Lênin ra đời vào giữa thế kỷ XIX, do C.Mác (1818 -1883) và Ph.Ăngghen
(1820-1895) sáng lập, V.I.Lênin (1870 - 1924) bổ sung và phát triển trên cơ sở
kế thừa những giá trị, thành tựu về trí tuệ, tư tưởng, tri thức khoa học của
nhân loại và tiền đề thực tiễn kinh tế - xã hội. C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin
đã thể hiện rõ lý tưởng mà các ông theo đuổi cũng chính là khát vọng của nhân
loại tiến bộ - với khát vọng, lý tưởng giải phóng hoàn toàn con người khỏi áp
bức bóc lột, hướng tới ấm no, tự do, hạnh phúc - và thực tế các ông cũng đã đấu
tranh không mệt mỏi để bảo vệ cho lý tưởng của mình. Giá trị cách mạng của chủ
nghĩa Mác - Lênin thể hiện ở một số điểm căn bản sau:
Một
là, lần đầu tiên trong lịch sử, chủ nghĩa Mác - Lênin đã đưa ra cách giải
thích khoa học về nguồn gốc, động lực phát triển của xã hội loài người nói
chung, tính tất yếu ra đời, phát triển của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản
nói riêng. Trước khi chủ nghĩa Mác ra đời, các nhà triết học, bao gồm cả các
nhà triết học duy vật khi nghiên cứu lĩnh vực đời sống xã hội đều bị chi phối
bởi thế giới quan duy tâm, tôn giáo. Theo đó giải thích hình thành, tồn tại và
phát triển của lịch sử, của xã hội từ ý thức, tinh thần mà chủ yếu là do thượng
đế, chúa trời, lực lượng siêu nhiên. Với lý luận về Hình thái kinh tế - xã hội,
xuất phát từ thực tiễn, từ con người hiện thực, C.Mác đã khẳng định sự phát
triển của xã hội loài người thực chất là sự thay thế các hình thái kinh tế - xã
hội, thông qua cách mạng xã hội. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội được xem như là
một cơ thể sống, luôn vận động, biến đổi bởi sự tác động mang tính biện chứng
của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, của cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng. Trong sự biến đổi đó, con người luôn giữ vai trò trung tâm, quan
trọng nhất và quyết định sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội.
Hai
là, chủ nghĩa Mác - Lênin đã khắc phục sự tách rời thế giới quan duy vật và
phép biện chứng trong lịch sử của triết học. Trước chủ nghĩa Mác-Lênin, do hạn
chế của lịch sử nên chủ nghĩa duy vật có nhược điểm là tính trực quan, siêu
hình, còn phép biện chứng lại được phát triển trong cái vỏ duy tâm thần bí.
Điều này khiến cho chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng tách rời nhau. Về phần
mình, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nghiên cứu, tiếp thu tri thức của nhân loại, những
thành tựu của khoa học nói chung và đặc biệt là thành tựu của học tự nhiên,
phân tích thực tiễn đương thời, từ đó cải tạo, phát triển chủ nghĩa duy vật và
phép biện chứng thành chủ nghĩa duy vật biện chứng. C.Mác đã tạo ra cuộc cách
mạng thực sự trong triết học về xã hội, con người và được coi là thành tựu vĩ
đại nhất của tư tưởng khoa học - điều mà tất cả các nhà triết học trước đó chưa
làm được.
Ba
là, chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết duy nhất nêu mục tiêu chung là giải
phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người (giải phóng nhân loại)
và chỉ ra lực lượng, con đường, phương thức đạt mục tiêu ấy. Dù các nhà tư
tưởng phương Tây xuyên tạc rằng chủ nghĩa Mác-Lênin đã bỏ “bỏ rơi” con người,
“quên” con người, nhưng thực tế cả phương diện lý luận và thực tiễn lịch sử đã
chứng tỏ rằng chỉ có chủ nghĩa Mác-Lênin mới khẳng định quần chúng Nhân dân là
người sáng tạo ra lịch sử, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng; chỉ có công
nhân là giai cấp cách mạng triệt để nhất. Điều đó đã chỉ ra cho xã hội, đặc
biệt là giai cấp công nhân, nhân dân lao động phương pháp luận đúng đắn để từng
bước giải phóng con người khỏi mọi hình thức nô dịch, áp bức, bóc lột, bất công
và từ đó được tự do phát triển toàn diện. Với sự ra đời của chủ nghĩa Mác, lần
đầu tiên giai cấp công nhân tìm thấy vũ khí lý luận của mình là chủ nghĩa Mác
và chủ nghĩa Mác có được lực lượng vật chất của mình là giai cấp công nhân.
Bốn
là, chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết mở, không ngừng đổi mới, phát triển
cùng với sự phát triển của tri thức nhân loại. Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Lý
luận của chúng tôi là lý luận của sự phát triển, chứ không phải là một giáo điều
mà người ta phải học thuộc lòng và lắp lại một cách máy móc”[5. tr. 796]. V.I.Lênin
nhấn mạnh: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong
xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt
nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về
mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”[6, tr.232]. Trên
thực tế, trong quá trình hình thành và phát triển hệ thống quan điểm lý luận
của chủ nghĩa Mác – Lênin, bản thân C.Mác và Ph.Ăngghen không phải ngay từ đầu
đã là những người có thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp biện chứng
duy vật, các ông đã từng là thành viên của phái Hêghen Trẻ trước khi trở thành
những nhà biện chứng lỗi lạc. Còn V.I.Lênin, việc ông bổ sung nhiều luận điểm
của triết học Mác cho phù hợp với điều kiện thực tiễn mới cũng như sự phát
triển của khoa học đã giúp học thuyết của Mác trở thành học thuyết triết học
phát triển. Vì vậy, phải luôn kiên định và đi theo những nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác - Lênin và trung thành với bản chất khoa học và cách mạng của nó
để không ngừng phát triển, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin ngày càng hoàn thiện
và gắn liền với thực tiễn.
2.
Đấu tranh phản bác các luận điệu phủ nhận vai trò của chủ nghĩa Mác-Lênin đối
với sự nghiệp cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
Một là, đấu
tranh phản bác luận điệu cho rằng ngày nay chủ nghĩa Mác-Lênin đã lỗi thời lạc
hậu, không còn phù hợp với lịch sử nói chung và với Việt Nam nói riêng.
Các thế lực thù
địch, phản động viện dẫn lý do thời đại máy hơi nước và chủ nghĩa tư bản tự do
cạnh tranh - thời kỳ mà những quan điểm, học thuyết chủ nghĩa Mác - Lênin đưa
ra để giải quyết những vấn đề của đời sống xã hội đã kết thúc, nhường chỗ cho
thời đại của các cuộc cách mạng về khoa học và công nghệ, của toàn cầu hóa và
hội nhập quốc tế. Chúng xuyên tạc rằng "ngày nay, chủ nghĩa Mác - Lênin
không còn bắt kịp và phản ánh đúng đắn sự phát triển của lực lượng sản xuất và
khoa học, công nghệ hiện đại; cả ba vị lãnh tụ của phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế đều xuất phát từ bối cảnh lịch sử của phương Tây; vì vậy, lý luận
của các ông không thể giải quyết được các vấn đề có tính lịch sử và thời đại
của các nước phương Đông, nhất là ở Việt Nam".
Chúng ta đều
biết, chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX trong điều
kiện thực tiễn của xã hội châu Âu, có nguồn gốc lý luận trực tiếp từ các nước
phương Tây. Hiện nay, loài người đang sống trong thời đại rất khác so với thời
đại của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin, với rất nhiều những biến đổi to lớn,
sâu sắc, nhất là sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ. Tuy nhiên,
những biến đổi đó vẫn không vượt ra ngoài những nguyên lý, phạm trù, quy luật
chung nhất mà các ông đã khám phá ra như những quy luật phổ biến của phép biện
chứng duy vật, những quy luật phổ biến về sự phát triển của xã hội loài người
(quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, tồn tại xã hội
quyết định ý thức xã hội, quy luật đấu tranh giai cấp, quy luật giá trị thặng
dư...). Với chủ nghĩa duy vật lịch sử, C.Mác đã chỉ ra quy luật phát triển của
xã hội loài người thực chất là sự thay thế các hình thái kinh tế - xã hội,
thông qua cách mạng xã hội. Theo đó, cùng với khẳng định tính tất yếu của hình
thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, C.Mác cũng chứng minh tính tất yếu của
hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Học thuyết giá trị thặng dư,
C.Mác đã chỉ ra mục đích và bản chất của chủ nghĩa tư bản là bóc lột giá trị
thặng dư - nguồn gốc dẫn tới sự bất công, bất bình đẳng trong xã hội, từ đó đi
đến khẳng định: “Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản
đều là tất yếu như nhau”[4.
tr. 613]. Thực tế cho thấy với nhiều thành tựu to lớn của mình,
chủ nghĩa tư bản chưa bao giờ mang tính toàn cầu như ngày nay song nó vẫn không
thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản trong nội tại của nó.
Sau khi C.Mác và
Ph.Ăngghen qua đời, V.I.Lênin đã kế thừa, vận dụng sáng tạo và phát triển học
thuyết của C.Mác vào thực tiễn cách mạng ở Nga và thế giới, từ đó đề ra học
thuyết về cách mạng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đế quốc chủ nghĩa. Trên
cơ sở những nghiên cứu của mình V.I.Lênin phát hiện ra quy luật phát triển
không đều của chủ nghĩa tư bản và đi đến kết luận: cách mạng vô sản có thể
thắng lợi ở một số nước hay thậm chí ở một nước riêng lẻ, nơi chủ nghĩa tư bản
chưa phải là phát triển nhất, nhưng là khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền tư
bản chủ nghĩa. Thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga đã chứng minh cho điều
đó.
Đối với cách mạng
Việt Nam, vào đầu những năm 20 của thế kỷ XX, sau khi đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất Những luận cương về vấn đề dân
tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã
trở thành người Việt Nam đầu tiên tiếp thu vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện Việt Nam, hình thành tư tưởng của mình và tạo
tiền đề quan trọng cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930. Thực
tiễn cách mạng Việt Nam hơn 90 năm qua dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt
Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, đó là: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm
lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”[2. tr.322], đã khẳng định giá trị và sức
sống vĩ đại của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Hai là, đấu
tranh phản bác quan điểm đối lập chủ nghĩa Mác - Lênin với tư tưởng Hồ Chí
Minh, cho rằng chỉ cần tư tưởng Hồ Chí Minh không cần đến chủ nghĩa Mác-Lênin.
Các thế lực thù
địch rêu rao rằng chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ khác mà còn đối lập về bản
chất với tư tưởng Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, thực tế lịch sử đã minh chứng cho
thấy các luận điệu xảo trá trên là không đúng sự thực mà chỉ nhằm âm mưu phủ
nhận thành quả cách mạng của Đảng và vai trò lãnh đạo của Đảng với dân tộc Việt
Nam.
Đầu thế kỷ XX,
trước sự khủng hoảng về đường lối cứu nước, người thanh niên Nguyễn Tất Thành
đã lựa chọn con đường khác với tất cả những tiền bối để tìm đến con đường cứu
nước thực sự tiến bộ. Người đã coi Luận cương của V.I.Lênin là “kim chỉ nam”,
là “mặt trời soi sáng”, là “cẩm nang thần kỳ”. Sau khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin,
Hồ Chí Minh không chỉ tiếp thu, truyền bá vào Việt Nam mà còn không ngừng vận
dụng, phát triển sáng tạo làm phong phú, sâu sắc học thuyết này trong điều kiện
cụ thể của đất nước. Xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, Hồ Chí Minh cho rằng,
cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa tuy có quan hệ chặt chẽ với
cách mạng chính quốc, nhưng không hoàn toàn phụ thuộc cách mạng chính quốc,
thậm chí có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản chính quốc. Khi nói về
quy luật hình thành Đảng Cộng sản, V.I.Lênin khẳng định: Đảng Cộng sản ra đời
từ sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân; khi vận dụng quy
luật này trong điều kiện của một nước nông nghiệp lạc hậu, Hồ Chí Minh khẳng
định: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời từ sự kết hợp của chủ nghĩa Mác - Lênin,
phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng
định: “Tư
tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn
đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả sự vận dụng và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển
các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân
loại”[1. tr. 88].
Như vậy, tư tưởng
Hồ Chí Minh có cội nguồn và được hình thành từ việc tiếp thu các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hóa của nhân loại mà đỉnh cao là chủ
nghĩa Mác - Lênin. Chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc lý luận quan trọng mang
tính tiên quyết, là cơ sở chủ yếu cho sự hình thành và phát triển tư tưởng Hồ
Chí Minh. Thông qua hoạt động trí tuệ và thực tiễn sáng tạo, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã vận dụng lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin
để nghiên cứu thực tiễn và tìm ra con đường cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí
Minh chính là sự vận dụng sáng tạo, phát triển và làm phong phú chủ nghĩa Mác -
Lênin trong điều kiện lịch sử mới, nó là sự kế thừa và phát triển một cách sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam chứ nó không đối lập
với chủ nghĩa Mác – Lênin như những gì mà các thế lực thì địch đang rêu rao.
Ba là, đấu
tranh phản bác quan điểm cho rằng "Việt Nam đi theo con đường xã hội chủ
nghĩa và kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là một sai lầm".
Sau khi các phong
trào đấu tranh yêu nước đầu thế kỷ XX lần lượt thất bại, thời kỳ khủng hoảng về
đường lối cứu nước và lãnh đạo giải phóng dân tộc - đất nước như không có đường
ra. Năm 1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước.
Sau gần 10 năm bôn ba khắp các châu lục vừa lao động, tự học tập, vừa nghiên
cứu lý luận, vừa nghiên cứu tìm hiểu thực tiễn các cuộc cách mạng trên thế
giới. Và chỉ khi Nguyễn Ái Quốc đến với V.I.Lênin và cách Cách mạng tháng Mười
Nga, Người đã rút ra được nhận định sâu sắc rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc,
mới có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi
người, cho các dân tộc. Người đã khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân
tộc, không có con đường nào khác con đường làm cách mạng vô sản” [3. tr. 314].
Từ lý tưởng tiến
bộ, cách mạng tìm được, Người đã vượt qua nhiều khó khăn thử thách, tích cực
hoạt động, chuẩn bị về tư tưởng lý luận, đường lối chính trị, tổ chức cán bộ để
đưa tới sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930. Như vậy, nền tảng của
Đảng chính là chủ nghĩa Mác - Lênin, mục tiêu của Đảng là độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội.
Trải qua các thời
kỳ, giai đoạn cách mạng khác nhau, dù thuận lợi hay trước khó khăn thách thức
thì đi lên chủ nghĩa xã hội vẫn là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn
đúng đắn của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cũng chính vì vậy, Đại hội toàn quốc
lần thứ XIII của Đảng khẳng định: “Tiếp tục kiên định, vận dụng và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và đường lối đổi mới của Đảng”[2. tr. 228-229].
Dưới ngọn cờ độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng đã có được niềm tin của nhân dân, tập hợp
được sức mạnh của quần chúng nhân dân để tiến hành cách mạng dân tộc nhân dân
và cách mạng xã hội chủ nghĩa, cả trong đấu tranh giải phóng dân tộc, thống
nhất đất nước và trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay. Lịch sử đã khẳng
định, ngay sau khi ra đời Đảng đã lãnh đạo Nhân dân thực hiện cao trào Xô viết
Nghệ Tĩnh (năm 1930) lập ra chính quyền của công nông theo kiểu Xô-vết; một
Đảng chỉ mới 15 tuổi nhưng đã lãnh đạo nhân dân làm nên thắng lợi vĩ đại của
Cách mạng tháng Tám năm 1945, lập ra Nhà nước Dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam
châu Á, đưa Nhân dân lên địa vị người làm chủ đất nước. Sự lãnh đạo sáng suốt
của Đảng dưới ngọn cờ độc lập dân tộc là nhân tố quyết định sự thắng lợi của
cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ với chiến thắng lịch sử ngày 30/4/1975, thống
nhất giang sơn về một mối; đặc biệt sau gần 40 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng, khá
toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật.
Kết
luận
Với hơn 90 năm
lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam kiên định mục tiêu độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đã lãnh đạo Nhân dân lao động và toàn dân tộc
không những giành được độc lập dân tộc, giải phóng nhân dân khỏi ách áp bức của
chủ nghĩa thực dân và phong kiến tay sai mà còn đưa đất nước bước vào thời kỳ
quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Với những thành tựu vĩ đại đạt được, Đảng đã
khẳng định được vai trò là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt
Nam. Cùng với việc phải luôn tỉnh táo nhận diện được các luận điệu thù địch,
mỗi cán bộ đảng viên cần tiếp tục bổ sung, phát triển lý luận của Đảng, làm cho
Đảng Cộng sản Việt Nam mãi là người lãnh đạo cách mạng Việt Nam, xứng đáng với
niềm tin yêu mà nhân dân dành cho Đảng.
Tài liệu tham khảo:
[1] Đảng Cộng sản
Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
[2] Đảng Cộng sản
Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập II, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự
thật, Hà Nội.
[3] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 9, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
[4] C. Mác và Ph. Ăngghen
(1999), Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
[5] C. Mác và Ph. Ăngghen
(1999), Toàn tập, tập 36,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[6] V. Lênin (1980), Toàn tập, tập 4, Nxb.Tiến bộ, Mátxcơva.