C.Mác
(5-5-1818 - 14-3-1883) là nhà tư tưởng vĩ đại của nhân loại, là người đầu tiên
đặt cơ sở khoa học cho CNXH và phong trào công nhân hiện đại. Trong số rất nhiều
những phát kiến quan trọng ghi tên ông vào lịch sử khoa học phải kể đến hai
phát minh vĩ đại làm thay đổi cả thế giới, đó là quan niệm duy vật về lịch sử
và học thuyết về giá trị thặng dư, mà theo Ph.Ăngghen, đời người chỉ cần một
trong hai phát minh đó đã là hạnh phúc lắm rồi.
V.I.Lênin cho rằng, chủ nghĩa duy vật lịch sử của
C.Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Khoa học đối với C.Mác là
một động lực lịch sử, một lực lượng cách mạng, bởi vì trước hết, C.Mác là một
nhà cách mạng; bằng cách này hay cách khác, ông tham gia vào việc lật đổ xã hội
tư bản và các thiết chế nhà nước do nó dựng nên, tham gia vào sự nghiệp giải
phóng giai cấp vô sản hiện đại mà ông là người đầu tiên đã đem lại cho giai cấp
đó một ý thức về địa vị của bản thân mình, về điều kiện để giải phóng mình, -
đó thật sự là một sứ mệnh thiết thân của ông. Đấu tranh là hành động tự nhiên của
C.Mác, và C.Mác đã đấu tranh một cách say sưa, kiên trì và có kết quả, trên đời
không mấy người được như vậy. Sự xuất hiện Hội liên hiệp công nhân quốc tế với
tư cách là vòng hoa vinh quang của toàn bộ sự nghiệp đó. Đó là lý do vì sao mà
C.Mác là người bị giai cấp tư sản căm ghét nhiều nhất và bị vu khống nhiều nhất
trong thời đại ông; các chính phủ thi nhau trục xuất ông, bọn tư sản thi nhau
nguyền rủa ông. Đúng là cường quyền không bẻ cong được ngòi bút của ông.
Ph.Ăngghen cho rằng: C.Mác có thể có nhiều kẻ đối địch, nhưng, chưa chắc ông đã
có một kẻ thù riêng nào.
Trong Lễ an táng C.Mác, Ph.Ăngghen đã đọc điếu văn bằng
tiếng Anh, trong đó có đoạn viết rằng, giống như Đácuyn đã tìm ra quy luật tiến
hóa của các loài, C.Mác đã tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người:
cái sự thật giản đơn đã bị những tầng tầng lớp lớp tư tưởng phủ kín cho đến
ngày nay là: con người trước hết cần phải ăn, uống, chỗ ở và mặc đã rồi mới có
thể làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo v.v. được; vì vậy, việc sản
xuất ra những tư liệu sinh hoạt vật chất trực tiếp và chính, mỗi một giai đoạn
phát triển kinh tế nhất định của một dân tộc hay một thời đại tạo ra một cơ sở,
từ đó mà người ta phát triển các thể chế nhà nước, các quan điểm pháp quyền,
nghệ thuật và thậm chí cả những quan niệm tôn giáo của con người ta, cho nên phải
xuất phát từ cơ sở đó mà giải thích những cái này, chứ không phải ngược lại,
như từ trước đến nay người ta vẫn làm.
Theo C.Mác, người ta không thể lấy bản thân những
quan hệ pháp quyền cũng như những hình thái nhà nước, hay lấy cái gọi là sự
phát triển chung của tinh thần của con người để giải thích những quan hệ và
hình thái đó, mà trái lại, phải thấy rằng những quan hệ và hình thái đó đều bắt
nguồn từ những điều kiện sinh hoạt vật chất... Nếu ta không thể nhận định về một
người căn cứ vào ý kiến của chính người đó đối với bản thân mình, thì ta cũng
không thể nhận định về một thời đại đảo lộn như thế căn cứ vào ý thức của thời
đại đó. Trái lại, phải giải thích ý thức ấy bằng những mâu thuẫn của đời sống vật
chất, bằng sự xung đột hiện có giữa các lực lượng sản xuất và những quan hệ sản
xuất. C.Mác đã phát hiện ra, trong xã hội, cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ
cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng; đời sống
vật chất thay đổi thì sớm muộn đời sống tinh thần cũng phải thay đổi theo.
Không
chỉ quan niệm duy vật về lịch sử, C.Mác còn phát hiện ra học thuyết về giá trị
thặng dư. Với học thuyết về giá trị thặng dư, C.Mác còn tìm ra quy luật vận động
riêng của phương thức sản xuất TBCN hiện đại và của xã hội tư sản do phương thức
đó đẻ ra. Với việc phát hiện ra giá trị thặng dư trong lĩnh vực này thì lập tức
một ánh sáng đã hiện ra trong khi tất cả các công trình nghiên cứu trước đây của
các nhà kinh tế học tư sản cũng như của các nhà phê bình XHCN vẫn đều mò mẫm
trong bóng tối. Học thuyết giá trị thặng dư đã làm tròn nhiệm vụ: một mặt, giải
thích tính tất yếu của sự ra đời của phương thức sản xuất TBCN trong mối liên hệ
lịch sử của nó và tính tất yếu của nó đối với một thời kỳ lịch sử nhất định, và
do đó tính tất yếu của sự tiêu vong của nó; mặt khác, vạch trần tính chất bên
trong còn chưa phát hiện được của phương thức sản xuất ấy. Học thuyết giá trị
thặng dư đã bóc trần những bí mật của CNTB, bản chất bóc lột tinh vi của giai cấp
tư sản đối với giai cấp công nhân; vạch ra động cơ, mục đích và kết quả vận động
của tư bản mà trước đó chưa từng có ai làm được.
Trong Lời tựa cuốn Góp phần phê phán khoa kinh tế
chính trị, C.Mác nói rõ, các quan điểm của ông, dù bị người ta xét đoán như thế
nào đi nữa, và dù cho những quan điểm đó không phù hợp với những thiên kiến tự
tư tự lợi của các giai cấp thống trị đi nữa, - thì vẫn là kết quả của những sự
nghiên cứu lâu dài và cẩn thận. Để hoàn thành Bộ Tư bản, C.Mác đã đọc gần bốn vạn
cuốn sách ở thư viện Luân Đôn. Trong Lời tựa viết cho Quyển 1 Bộ Tư bản, C.Mác
cũng nói rằng: ông sẽ sung sướng đón chờ mọi nhận xét xuất phát từ sự phê phán
khoa học. Còn đối với những thiên kiến của cái mà người ta gọi là công luận, mà
ông không bao giờ nhượng bộ, thì cũng như trước đây, phương châm của ông vẫn là
những lời sau đây của nhà thơ vĩ đại thành phố Fơlorenxơ: Đường ta ta cứ đi, mặc
chi thiên hạ nói.
C.Mác đã phân tích xã hội trên cơ sở phương pháp hết
sức khoa học. C.Mác cho rằng nghiên cứu một cơ thể đã phát triển thì dễ hơn là
nghiên cứu tế bào của cơ thể đó. Vậy, tế bào của xã hội tư bản là gi? Ông cho rằng
hình thái hàng hóa của sản phẩm hay hình thái giá trị của hàng hóa là hình thái
tế bào kinh tế của xã hội tư sản. Theo C.Mác, đối với người không am hiểu thì
việc phân tích hình thái đó hình như chỉ là một sự suy luận hão xoay quanh những
điều nhỏ nhặt. Và đó quả thật là những điều nhỏ nhặt, nhưng lại là những điều
nhỏ nhặt, thuộc loại mà khoa vi giải phẫu chẳng hạn, phải đụng đến. Đây chính
là phương phápmà sau này V.I.Lênin đã khái quát là phương pháp đi từ trừu tượng
đến cụ thể của C.Mác. Như vậy, C.Mác đã phân tích xã hội trên cơ sở phương pháp
hết sức khoa học.
Ngoài ra, khi phân tích các hình thái kinh tế, theo
C.Mác, người ta không thể dùng kính hiển vi hay những phản ứng hóa học được. Sức
trừu tượng hóa phải thay thế cho cả hai cái đó. Không chỉ chỉ ra nét đặc thù giữa
nghiên cứu khoa học tự nhiên với nghiên cứu khoa học xã hội; mà ông còn chỉ ra
sự khác nhau giữa phương pháp nghiên cứu và phương pháp trình bày. Theo ông,
nghiên cứu thì phải nắm lấy với tất cả những chi tiết của nó, phải phân tích
các hình thái phát triển khác nhau của nó và tìm ra được mối liên hệ bên trong
của những hình thái đó. Chỉ sau khi hoàn thành công việc đó rồi mới có thể mô tả
sự vận động thực tế một cách thích đáng được. Đặc biệt, ông nêu lên tính đặc
thù của môn kinh tế chính trị thể hiện ở chỗ những tư liệu mà chính trị kinh tế
học nghiên cứu đã làm cho những tình cảnh điên cuồng nhất, hèn hạ nhất và ghê tởm
nhất của lòng người, - tức những cơn thịnh nộ của lợi ích tư nhân - xông ra chống
lại sự nghiên cứu tự do và khoa học ấy. Chẳng hạn, Giáo hội nước Anh sẽ dễ dàng
tha thứ cho việc công kích 38 trong số 39 tín điều của nó, hơn là tha thứ việc
xâm phạm vào 1/39 số thu nhập bằng tiền của nó.
Trong
nghiên cứu, C.Mác đã tiến hành chọn ra những mẫu điển hình để tiến hành phân
tích, giống như một nhà tự nhiên nghiên cứu tự nhiên. C.Mác cho rằng nhà vật lý
học hoặc giả quan sát các quá trình tự nhiên ở những nơi nào mà các quá trình ấy
thể hiện ra dưới một hình thức nổi bật và ít bị che mờ nhất bởi những ảnh hưởng
gây nhiễu loạn, hoặc giả nếu như có thể thì tiến hành thực nghiệm trong những
điều kiện đảm bảo cho quá trình diễn biến dưới một dạng thuần túy. Trong tác phẩm
này (tức trong Tư bản, Quyển 1), đối tượng nghiên cứu của C.Mác là phương thức
sản xuất TBCN và những quan hệ sản xuất và trao đổi thích ứng với phương thức ấy.
Bởi vậy, theo C.Mác, nước Anh vẫn là nước điển hình của phương thức sản xuất
này. Đó là nguyên nhân vì sao nước đó lại được dùng làm minh họa chủ yếu cho sự
trình bày lý luận của ông. Nước phát triển hơn về công nghiệp chỉ nêu lên cho
nước kém phát triển cái hình ảnh tương lai của bản thân nước này thôi.
Qua đó ta thấy C.Mác nghiên cứu xã hội giống như một
nhà tự nhiên nghiên cứu tự nhiên.C.Mác nói chuyện với người con rể P.Laphácgơ rằng:
khoa học chỉ đạt được hoàn thiện khi nó sử dụng toán học. Trong bộ Tư bản,
chúng ta bắt gặp khá nhiều công thức toán học. Từ đó, V.I. Lênin cho rằng tính
chất lôgíc đặc sắc và sự cố kết chặt chẽ của những tư tưởng của C.Mác - những đặc
tính này, chính kẻ thù của Mác cũng phải thừa nhận - những tư tưởng mà toàn bộ
hợp thành chủ nghĩa duy vật hiện đại và CNXH khoa học hiện đại, được coi là lý
luận và cương lĩnh của phong trào công nhân ở tất cả các nước văn minh.
Trong Lời tựa viết cho lần xuất bản thứ nhất bộ Tư bản.
Phê phán khoa kinh tế chính trị, tập thứ nhất, Quyển I, C.Mác có viết: “Trong tất
cả các lĩnh vực khác thì cũng giống như các nước khác ở lục địa Tây Âu, chúng
ta(nước Đức)đau khổ không những vì sự phát triển của nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa, mà còn đau khổ vì nó phát triển chưa đầy đủ. Ngoài những tai họa của thời
hiện nay ra, chúng ta còn phải chịu đựng cả một loạt những tai họa kế thừa do
chỗ các phương thức sản xuất cổ xưa, lỗi thời vẫn tiếp tục sống dai dẳng với những
quan hệ chính trị và xã hội trái mùa do chúng đẻ ra. Chúng ta đau khổ không những
vì những người đang sống, mà còn vì những người đã chết nữa. Le mort saisit le
vif! (người chết nắm lấy người sống!)”(1).
Trước kia, những nước tiền tư bản tiến lên CNXH thường
quá nhấn mạnh vào khía cạnh thứ nhất, tức chúng ta đau khổ vì CNTB; mà ít để ý
tới khía cạnh thứ hai, tức đau khổ vì thiếu nó; tức thiếu tất cả những cái mà
CNTB đã tích lũy được trong vòng ba trăm năm như khoa học công nghệ, ý thức
pháp luật, khoa học và kỹ năng, quản lý kinh tế,... Những nước XHCN ở phương
Đông do xuất phát điểm chưa trải qua giai đoạn phát triển TBCN, nên về mặt kinh
tế cũng nằm trong tình trạng như vậy; và do đó, hiện nay, những nước này không
chỉ thấm thía vế thứ hai mà C.Mác đã nói, tức đau khổ vì nó phát triển chưa đầy
đủ, đau khổ vì thiếu nó, mà còn thấm thía cả việc những tai họa do việc kế thừa
các phương thức sản xuất cổ xưa, lỗi thời vẫn tiếp tục sống dai dẳng với những
quan hệ chính trị và xã hội trái mùa do chúng đẻ ra. Điều này đúng như những
gì đang diễn ra ở Việt Nam hiện nay.
Ở Việt Nam, Hồ Chí Minh là người
đầu tiên tiếp thu, truyền bá chủ nghĩa Mác; đồng thời cũng là người đầu tiên vận
dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác lên tầm cao mới trong điều kiện lịch
sử cụ thể của Việt Nam, từ đó, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác.
1. Trước hết, về thời điểm (cơ hội, điều kiện) tiến
hành cách mạng XHCN, trên bình diện lý luận, ở Hồ Chí Minh đã có những vận dụng
sáng tạo, phát triển lên một tầm cao mới, hết sức độc đáo đối với chủ nghĩa Mác
và được thực tiễn chứng minh.
2.
Cách
mạng giải phóng dân tộc gắn liền với cách mạng XHCN, “Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”(2) là
tư tưởng sáng tạo độc đáo, phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện cụ thể của
Việt Nam khi đó ở Hồ Chí Minh.
3. Trong quá trình tiến hành cách mạng giải phóng dân
tộc, tiến lên làm cuộc cách mạng XHCN, đứng trên góc độ của người phương Đông,
Hồ Chí Minh cũng có những tư tưởng sáng tạo vô cùng độc đáo về mối quan hệ giữa
giai cấp và dân tộc; về chủ nghĩa dân tộc của người An Nam; về cấu trúc xã hội
của những nước phương Đông; về việc bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác; ...và đã
được thực tiễn chứng minh. Người nói: “Xã hội Ấn Độ - China - và tôi có thể
nói: Ấn Độ hay Trung Quốc về mặt cấu trúc kinh tế, không giống các xã hội
phương Tây thời Trung cổ, cũng như thời cận đại, và đấu tranh giai cấp ở đó
không quyết liệt như ở đây”(3).
Đi sâu nghiên cứu phương Đông, Hồ Chí Minh đã đặt ra một vấn đề hết sức chính
xác: “Mác cho ta biết rằng sự tiến triển của các xã hội trải qua ba giai đoạn:
Chế độ nô lệ, chế độ nông nô, chế độ tư bản; và trong mỗi giai đoạn ấy, đấu
tranh giai cấp có khác nhau. Chúng ta phải coi chừng! Các dân tộc Viễn Đông có
trải qua hai giai đoạn đầu không?”(4). Hồ Chí Minh viết: không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch
sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời
mình không có được. Người đề xuất: “Xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử
của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông”(5).
Tại sao lại như vậy? Theo Người, “Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một
triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà lịch sử
châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại”(6).
Ở đây, Hồ Chí Minh đã phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện cụ thể của các
nước phương Đông và đặc biệt là ở Việt Nam chứ không phải là xét lại chủ nghĩa
Mác.
Nghiên cứu tình hình cụ thể các nước phương Đông, Hồ
Chí Minh cho rằng, với “những lý do lịch sử cho phép chủ nghĩa cộng sản thâm nhập
dễ dàng vào châu Á, dễ dàng hơn là ở châu Âu”(7).
Phát hiện mang tính chất dự đoán thiên tài này của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ năm
1921 đến nay vẫn tỏ rõ sức sống, đứng vững và được thực tế chứng minh.
Trong Văn kiện Đại hội XII, Đảng ta đã chỉ rõ bài học
đầu tiên trong năm bài học của công cuộc đổi mới là trong quá trình đổi mới phải
chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
CNXH, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam. Hiện nay, bên cạnh việc
vận dụng sáng tạo thì việc bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác là việc làm cấp
bách hơn bao giờ hết trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng cùng với cuộc
cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra rộng khắp. Chúng ta cần xem trong chủ
nghĩa Mác, cái gì vẫn còn đúng và vẫn còn có giá trị lâu dài; cái gì trước kia
chúng ta hiểu không đúng nay phải điều chỉnh lại cho đúng; cái gì ngay từ thời
các nhà kinh điển đã thừa nhận là không đúng; cái gì đã bị thực tiễn vượt qua,
cần bổ sung, phát triển. Để tiến hành công việc này một cách có hiệu quả, đưa
Việt Nam tiến nhanh, vững chắc lên CNXH, chúng ta cần học tập phong cách,
phương pháp, quan điểm phát triển chủ nghĩa Mác của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
(Theo lyluanchinhtri.vn)
_______________________
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 4-2018
(1) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập,
t.23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1993, tr.19-20.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.12,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.30.
(3), (4), (5), (6) Sđd, t.1, tr. 509, 510, 510, 509-510.
(7) Sđd, t.1, tr.47.