Nhân dân bản Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng
vui mừng chào đón Bác Hồ về thăm, ngày 20/2/1961. Ảnh: Tư liệu TTXVN
NHỮNG LUẬN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ GIỮ
GÌN, PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG ĐOÀN KẾT CỦA ĐẢNG TRONG TÁC PHẨM DI CHÚC
Đoàn kết trong Đảng là vấn đề cần quan tâm
hàng đầu trong công tác xây dựng Đảng
Đoàn kết là truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng
và của dân ta. Truyền thống đoàn kết trong Đảng bắt nguồn từ truyền thống đoàn
kết của dân tộc Việt Nam trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, được
Đảng kế thừa và phát huy trong điều kiện lịch sử mới và được nâng tầm dưới ánh
sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Truyền thống đó được xây dựng, bồi đắp qua quá
trình hình thành và phát triển của Đảng, được thử thách qua các thời kỳ đấu
tranh đầy gian khổ, trở thành sức mạnh nội sinh to lớn, thành giá trị văn hóa của
Đảng.
Trong rất nhiều nội dung của công tác xây dựng
Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng khối đoàn kết
trong Đảng. Không phải ngẫu nhiên mà trong “Di chúc” - văn kiện kết tinh những
tâm huyết trọn đời của cuộc đời Hồ Chí Minh - chỉ trong một đoạn văn ngắn viết
về Đảng, Người đã 5 lần nhắc đến chữ “đoàn kết” và nhấn mạnh “đoàn kết chặt chẽ”,
“đoàn kết nhất trí”, “đoàn kết và thống nhất”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Hợp tác xã nông nghiệp Tân Lập, huyện
Quốc Oai, tỉnh Hà Tây (8-7-1958)_Nguồn: hochiminh.vn
Là người sáng lập và rèn luyện, lãnh đạo Đảng
qua những chặng đường cách mạng đầy cam go, gian khổ, Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu
rõ tầm quan trọng của việc thực hiện đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Đảng Cộng
sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng, bởi vậy, có đoàn kết trong Đảng mới
là hạt nhân đoàn kết được toàn dân tộc, đoàn kết với cách mạng thế giới để tạo
nên sức mạnh tổng hợp. Trong cuộc vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ
Chí Minh đã chỉ rõ: Thiếu một đảng cách mạng thống nhất lãnh đạo phong trào
công nhân, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta sẽ như con tàu
không có người cầm lái. Sau khi Đảng Cộng sản ra đời, Hồ Chí Minh luôn chăm lo
giữ gìn sự đoàn kết thống nhất, kiên quyết đấu tranh chống lại mọi hiện tượng
bè phái, chia rẽ trong Đảng. Người khẳng định “Sở dĩ Đảng ta có thể lãnh đạo
giai cấp công nhân và toàn dân tiến lên chủ nghĩa xã hội, là vì Đảng ta có
chính sách đúng đắn và lãnh đạo thống nhất. Mà lãnh đạo thống nhất là vì toàn
thể đảng viên tư tưởng nhất trí và hành động nhất trí”(1). Người yêu cầu nghiêm khắc đối với mỗi
cán bộ đảng viên: “Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự
đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”(2). Với Đảng, sự đoàn kết chính là nguồn sức
mạnh nội sinh quan trọng nhất, đảm bảo vững chắc nhất cho sự tồn tại và phát
triển của Đảng, của cách mạng. Đoàn kết trong Đảng theo Chủ tịch Hồ Chí Minh là
vấn đề có tính nguyên tắc, phải được quán triệt trong lý luận và thực tiễn xây
dựng Đảng, phải được thực hiện một cách nhất quán, xuyên suốt qua các chặng đường
của cách mạng Việt Nam.
Trong Di chúc, Hồ Chí Minh
đưa ra một nhận định mang tính tổng kết về quy luật phát triển Đảng, đó là:
Toàn bộ sức mạnh của Đảng, uy tín của Đảng, thành công của Đảng có được là ở
truyền thống đoàn kết chặt chẽ trong Đảng và sự trung thành, hết lòng hết sức
phục vụ giai cấp, phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Người viết: “Nhờ đoàn kết
chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc,
cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo
nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”(3). Đặt hai yếu tố “đoàn kết chặt chẽ” và
“một lòng, một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc” trong một
mệnh đề, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra mối quan hệ chặt chẽ, sự tác động hai chiều
giữa đoàn kết và việc kiên định lý tưởng, mục tiêu của Đảng. Đảng có đoàn kết
chặt chẽ mới thực hiện mục tiêu, lý tưởng phụng sự giai cấp, nhân dân và Tổ quốc.
Ngược lại, mục tiêu, lý tưởng phụng sự giai cấp, nhân dân và Tổ quốc là nền tảng
để xây dựng và củng cố sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Nếu xa rời mục tiêu,
lý tưởng ấy, sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng sẽ trở nên hình thức, không có cơ
sở tồn tại. Sự kết hợp của hai yếu tố đó là nguyên nhân thắng lợi của Đảng, của
cách mạng Việt Nam.
Phương thức xây dựng, giữ gìn và phát huy khối
đại đoàn kết trong Đảng
Để xây dựng và phát huy khối đoàn kết trong Đảng,
trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh tập trung vào ba nội dung chủ yếu
là: 1) Trong Đảng phải thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên; 2)
Nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình; 3) Phải có tình đồng chí
thương yêu lẫn nhau(4). Chiều
sâu của tư tưởng Hồ Chí Minh trong những vấn đề trên đây là ở chỗ: Người đã chọn
ra những vấn đề cốt lõi nhất trong hàng loạt vấn đề cần phải thực hành và chỉ
ra phương pháp giải quyết tối ưu để đưa tới sự chuyển biến có tính cách mạng của
Đảng trước hiện thực khách quan luôn vận động, biến đổi không ngừng.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu
ra nguyên lý của đoàn kết trong Đảng: Không thực hiện dân chủ thì không đoàn kết
được, chỉ có thực hành dân chủ rộng rãi và thường xuyên mới đi tới sự thống nhất
về tư tưởng và sự thống nhất tư tưởng trên cơ sở thực hành dân chủ thực sự là
cơ sở vững chắc cho sự thống nhất trong tổ chức và hành động của toàn Đảng. Dân
chủ trong nội bộ Đảng được thể hiện thông qua cách làm việc, cách lãnh đạo,
cách thức tự phê bình và phê bình của cán bộ, đảng viên. Người chỉ rõ, mục đích
của phê và tự phê để soi vào mình và người khác, giúp thấy rõ hơn nhằm phát huy
ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm; để tư tưởng và hành động đúng hơn, tốt hơn, tiến
bộ hơn. Trong tác phẩm cuối cùng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh việc
thực hành dân chủ, phê và tự phê chính là giải pháp tối ưu nhất, “cách tốt
nhất” để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Bên cạnh
đó, Người cũng hết sức lưu ý thực hành dân chủ, phê và tự phê phải được tiến
hành “rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh”. Đây là lời căn dặn sâu sắc, là sự
đúc kết cô đọng nhất những nguyên tắc tổ chức hoạt động, quy luật phát triển của
Đảng.
Khi nói về phê bình và tự phê bình, Chủ tịch
Hồ Chí Minh còn căn dặn: “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”.
Trong suốt quá trình lãnh đạo Đảng, lãnh đạo cách mạng, vấn đề đoàn kết luôn được
Chủ tịch Hồ Chí Minh giải quyết một cách bao dung, xử lý dựa trên nguyên tắc,
Điều lệ của Đảng nhưng vẫn thấm đẫm tình người. Người khẳng định “Muốn đi
tới mục đích, không phải chỉ tổ chức là đủ, phải chân thành trong tư tưởng nữa”(5). Bởi không có tình đồng chí, tình nghĩa
yêu thương lẫn nhau trong Đảng thì đoàn kết chỉ là hình thức, không bền vững, dễ
dẫn đến bè phái, cơ hội, cục bộ, địa phương chủ nghĩa... Không xuất phát từ
tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, mọi cuộc phê bình và tự phê bình sẽ không
đem lại kết quả tốt. “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau” là
lời căn dặn thật chí tình, chí nghĩa thể hiện tình cảm bao dung, chủ nghĩa nhân
văn sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng gặp mặt thân mật người
có uy tín tiêu biểu trong đồng bào dân tộc thiểu số khu vực biên giới trong
Chương trình “Điểm tựa của bản làng” lần thứ nhất, do Tạp chí Cộng sản, Ủy ban
Dân tộc và Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng phối hợp tổ chức tại Hà Nội, ngày
21/12/2018. Ảnh: TTXVN
GIỮ GÌN, PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG
ĐOÀN KẾT CỦA ĐẢNG TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI HIỆN NAY
Có thể nói việc giữ gìn, củng cố khối đoàn kết
trong Đảng đang là đòi hỏi cấp thiết hiện nay. Bởi bên cạnh thành tựu đạt được,
trong công tác xây dựng Đảng đang còn tồn tại không ít hạn chế đã kéo dài và
ngày càng trở nên nghiêm trọng như tình trạng vi phạm kỷ luật Đảng, mất dân chủ,
mất đoàn kết ở nhiều nơi, nhiều tổ chức Đảng; sự yếu kém về năng lực và tha hóa
về đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ cao cấp. Tình
trạng mất ổn định ở một số địa phương, sự gia tăng của các tổ chức phản động
trong và ngoài nước… chính là hệ quả tất yếu từ những yếu kém của Đảng và đang
là nguy cơ trực tiếp đối với việc duy trì, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng
sản. Bên cạnh đó, công cuộc đổi mới toàn diện có thể nói cũng chính là “cuộc
chiến đấu khổng lồ” đang đặt ra yêu cầu mới với Đảng với tư cách là đảng cầm
quyền. Mặt khác, tình hình quốc tế và khu vực hiện nay đang diễn biến rất phức
tạp, khó lường ẩn chứa thách thức đối với công cuộc bảo vệ, xây dựng và phát
triển đất nước một cách vững bền. Trong chiến lược “diễn biến hòa bình”, chống
phá nhiều mặt của các thế lực thù địch, phản động, một trong những âm mưu hết sức
nguy hiểm là phá hoại Đảng từ bên trong, do đó vấn đề tăng cường củng cố, xây dựng
sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng nhằm bảo vệ Đảng,
bảo vệ chế độ và con đường đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Tại Đại hội XIII, Đảng đã xác định rõ phương
hướng, nhiệm vụ, mục tiêu phát triển tổng quát của đất nước, đó là: Nâng
cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng
và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm
tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ
nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh
phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức
mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường
hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành
nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, Đảng chỉ
rõ mục tiêu cụ thể đến năm 2025: Là nước đang phát triển, có
công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến
năm 2030: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung
bình cao; và đến năm 2045: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao(6).
Để thực hiện mục tiêu chiến lược đó đòi hỏi Đảng
không ngừng tự chỉnh đốn, tự nâng cao về mọi mặt: bản lĩnh, tầm nhìn, trí tuệ,
sức chiến đấu, năng lực phụng sự và lãnh đạo. Muốn vậy, trước hết Đảng phải
đoàn kết, bởi lẽ có thật sự đoàn kết, Đảng mới có thể huy động tâm huyết, trí
tuệ, sự đóng góp ở mức cao nhất của mỗi cá nhân đảng viên, của tổ chức đảng, của
cả dân tộc, hoàn thành sứ mệnh trọng đại, cao cả của một đảng cầm quyền đối với
nhân dân, với đất nước. Từ những lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đoàn kết
trong Đảng, chúng ta có những chỉ dẫn quý giá cho cuộc vận động xây dựng, chỉnh
đốn Đảng trong công cuộc đổi mới hiện nay.
Một là, cần đề ra đường lối
cách mạng đúng đắn làm cơ sở cho sự đoàn kết trong Đảng. Đường lối ấy phải xây
dựng dựa trên nguyên lý chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; vận dụng
sáng tạo tình hình cụ thể của đất nước. Đường lối đó phản ánh mục tiêu cách mạng,
phương pháp hành động, chủ trương thực hiện và những bước đi quan trọng của từng
giai đoạn. Chỉ trên cơ sở đường lối chiến lược đúng đắn, khoa học, Đảng mới có
thể tập hợp, đoàn kết các thế hệ đảng viên, các tầng lớp nhân dân; mới tạo sự
thống nhất trọn vẹn tư tưởng, ý chí, hành động trong toàn Đảng, toàn dân kiên định
đi theo con đường Đảng đã chọn. Sự trung thành với lý tưởng, con đường cách mạng,
với Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” là
cơ sở và nội dung cho sự đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng.
Hai là, củng cố kiện toàn
tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Thực hiện nghiêm
các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ. Thực
hành dân chủ chính là “chìa khóa vạn năng” để giải quyết được mọi khó khăn, thử
thách trong các nhiệm vụ của Đảng; nhưng dân chủ phải gắn với tập trung, kỷ
cương, kỷ luật của Đảng. Đây là nguyên tắc cơ bản sống còn của một đảng cách mạng,
chân chính và giúp Đảng không ngừng lớn mạnh. Trong sinh hoạt và hành động, Đảng
phải lấy tự phê bình và phê bình là phương pháp căn bản của Đảng để giải quyết
mâu thuẫn, khắc phục nhược điểm, tạo nên sự thống nhất cao trong Đảng. Đoàn kết
trong Đảng không phải là sự đoàn kết xuôi chiều, trái lại là đoàn kết được xây
dựng trên cơ sở đấu tranh để đi đến thống nhất về tư tưởng, hành động. Mất dân
chủ, dân chủ hình thức hoặc thiếu tự do tư tưởng trong sinh hoạt Đảng thì không
thể có bất cứ sự sáng tạo, sự phát triển nào. Bởi vậy, cần mở rộng dân chủ, xây
dựng một bầu không khí cởi mở, tin cậy với tinh thần thật sự cầu thị, từ đó,
khơi dậy mọi tiềm năng sáng tạo, kể cả với những người ngoài Đảng để cùng nhau
góp sức xây dựng Đảng, xây dựng đất nước.
Ba là, tăng cường
công tác giáo dục, rèn luyện đạo đức, tư cách người cán bộ, đảng viên gắn với đấu
tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng. Như Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định, đạo đức chính là sức mạnh tinh thần vô địch
để chống lại mọi thói hư tật xấu, mọi ham muốn tầm thường, làm cho mỗi con người
hoàn thiện hơn, làm cho Đảng mạnh và ngày càng mạnh hơn. Do đó, phải coi trọng
xây dựng Đảng từ mỗi đảng viên; phải chọn lọc đảng viên, chăm lo giáo dục đảng
viên, phát huy tính tiên phong, gương mẫu của người đảng viên cộng sản. Trong
đó, chú trọng việc tăng cường trách nhiệm nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng
viên trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp
hành Trung ương. Thông qua việc nêu gương, nhân rộng các tấm gương điển hình của
tập thể và cá nhân để “giáo dục lẫn nhau”, giữ gìn và củng cố sự đoàn kết, thống
nhất trong Đảng, xây dựng sự đồng thuận, tăng cường sức mạnh của khối đại đoàn
kết toàn dân tộc trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của đất nước, địa phương,
cơ quan, đơn vị.
Bốn là, tăng
cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, thi hành nghiêm minh kỷ luật và
kiên quyết giải quyết dứt điểm hiện tượng gây mất đoàn kết trong nội bộ Đảng. Kiểm
tra, giám sát trong Đảng, một mặt phải tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy
các cấp, đề cao trách nhiệm của các cơ quan chức năng, tích cực đổi mới phương
pháp, cách thức tiến hành; mặt khác, cần có cơ chế, quy chế, quy định cụ thể để
bảo vệ và phát huy vai trò giám sát của quần chúng Nhân dân đối với đội ngũ cán
bộ, đảng viên của Đảng. Để bảo đảm cho công tác kiểm tra, giám sát chặt chẽ
theo quy định, cấp ủy, chi bộ cần xây dựng, bổ sung và hoàn thiện hệ thống quy
chế làm việc, quy chế lãnh đạo phù hợp với tính chất, nhiệm vụ của mỗi tổ chức
đảng; gắn kiểm tra thường xuyên với kiểm tra đột xuất; kiểm tra kết quả lãnh đạo
của chi bộ, đảng bộ với việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của cán bộ lãnh đạo,
người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên. Đồng thời, biểu dương kịp thời
và có biện pháp cụ thể, thiết thực giúp cho các tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên
chấp hành nghiêm kỷ luật của Đảng theo quy định của Điều lệ Đảng. Bên cạnh đó,
cần thi hành kỷ luật nghiêm minh, tập trung xử lý dứt điểm tình trạng mất đoàn
kết nội bộ, những việc lợi dụng bất đồng ý kiến, mâu thuẫn trong nội bộ dẫn đến
nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” làm tan rã khối đoàn kết thống nhất
trong Đảng.
Qua hơn 90 năm hoạt động và trưởng thành, giữ gìn sự đoàn kết,
thống nhất trong Đảng trở thành một quy luật xây dựng và phát triển của Đảng Cộng
sản Việt Nam; là sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử của Đảng; là nhân tố quan trọng
tạo nên bản lĩnh, sức mạnh chiến đấu của Đảng.
(theo tuyengiao.vn)
(1) (2) (3) (4)
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2011, t. 11, tr. 606, 611,
611, 611.
(5)
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 185.
(6)
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.I, tr. 112.